L. lutjanus sống gần các rạn san hô, độ sâu đến ít nhất là 96 m.[10]
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. lutjanus là 35 cm.[10] Nhìn chung thì loài này có màu xám bạc, trừ vùng lưng màu nâu vàng. Hai bên lườn có một sọc dày màu vàng đến hơi nâu từ mắt thẳng đến gốc vây đuôi, phía dưới là các sọc mảnh hơn (dày bằng chiều rộng một hàng vảy cá) cùng màu, các vạch tương tự ở phía trên đường bên nhưng nằm xiên. Các vây màu vàng nhạt đến trắng.
Số gai ở vây lưng: 10–12; Số tia vây ở vây lưng: 12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16–17.[11]
Thức ăn của L. lutjanus bao gồm cá nhỏ hơn và động vật giáp xác, và thường hợp thành đàn lên đến vài trăm cá thể,[11] có khi bắt gặp chúng trong đàn của những loài Lutjanus khác.[10]
Ở vịnh Aden và ngoài khơi Đông Phi, L. lutjanus sinh sản lần lượt vào tháng 3 và tháng 11, trong khi ở vịnh Suez, loài này sinh sản từ tháng 1 đến tháng 6.[11]
Độ tuổi lớn nhất mà L. lutjanus ước tính có thể đạt được là 11 năm.[11]
Giá trị
L. lutjanus không phải loài được nhắm mục tiêu, chủ yếu được đánh bắt ngẫu nhiên, được bán dưới dạng tươi sống trên thị trường địa phương.[1]
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Lutjanus lutjanus”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2023.
^Trần Công Thịnh; Võ Văn Phú; Nguyễn Phi Uy Vũ; Bùi Đức Lĩnh (2020). “Đa dạng thành phần loài cá ở hạ lưu sông Cái, Nha Trang”(PDF). Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản. 2: 97–111. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2023.
^ abcRanier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lutjanus lutjanus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
^ abcdWilliam D. Anderson & Gerald R. Allen (2001). “Lutjanidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 5. Bony fishes part 3. Roma: FAO. tr. 2882. ISBN92-5-104302-7.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)