Tàu ngầm Type B được cải tiến từ phân lớp KD6 của lớp tàu ngầm Kaidai dẫn trước, và được trang bị một thủy phi cơ nhằm tăng cường khả năng trinh sát.[3] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]
Type B1 trang bị hai động cơ dieselKampon Mk.2 Model 10 công suất 6.200 mã lực phanh (4.623 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,6 hải lý trên giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B1 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]
Theo tinh thần Hiệp ước Ba bên (Tripartite Pact) được ký kết giữa Đức Quốc Xã, Ý và Nhật Bản vào tháng 9, 1940, Nhật Bản trao đổi nhân sự, vật tư chiến lược và hàng hóa với Đức và Ý, thoạt tiên sử dụng tàu chở hàng, nhưng phải chuyển sang tàu ngầm khi các vùng biển bị lực lượng Đồng Minh phong tỏa.
Vào giữa tháng 6, I-30 được chọn để thực hiện một nhiệm vụ Yanagi; nó được phối thuộc trực tiếp cùng Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội và giữ chế độ im lặng vô tuyến tuyệt đối trong khi hướng sang phía Tây.[7] Nó được chiếc Aikoku Maru tiếp nhiên liệu lần sau cùng vào ngày 18 tháng 6.[7] Vào ngày 30 tháng 6, ở vị trí 300 mi (480 km) về phía Nam Durban, Nam Phi, nó bị một máy bay tuần tra Nam Phi phát hiện, nhưng đã thoát được mà không bị hư hại,[7] và sau khi băng qua mũi Hảo Vọng để tiến vào Đại Tây Dương, con tàu mang tên mã là Sakura từ ngày 2 tháng 8.[7] Nó đi đến vịnh Biscay vào ngày 2 tháng 8, và được hộ tống bởi một lực lượng hùng hậu bao gồm tám máy bay ném bomJunkers Ju 88 và tám tàu quét mìn,[7] đưa đến Lorient là căn cứ lớn nhất dọc bờ biển Đại Tây Dương của Pháp.[7]I-30 trở thành tàu ngầm Nhật Bản đầu tiên đi đến Châu Âu trong Thế Chiến II.[7]
Sĩ quan và thủy thủ của I-30 được Đại đô đốcErich Raeder Tổng tư lệnh Hải quân, Đô đốc Karl Dönitz Tư lệnh Lực lượng Tàu ngầm, và Đại tá Hải quân Yokoi Tadao, Tùy viên Hải quân Nhật Bản tại Đức tiếp đón tại bến tàu, và sau đó được những người ban đồng minh phe Trục chiêu đãi nồng hậu.[7] Họ có chuyến đi đến Berlin, nơi Trung tá Endo hạm trưởng được đích thân Adolf Hitler trao tặng huân chương, và trên đường quay trở lại Lorient họ có chặng dừng để tham quan Paris.[7] Trong thời gian đó hàng hóa của I-30 chuyển cho Đức được chất dỡ khỏi con tàu, bao gồm 1.500 kg (3.300 lb) mica và 650 kg (1.430 lb) sơn cánh kiến; Nhật Bản cũng cung cấp cho Đức bản vẽ của kiểu ngư lôi Type 91 phóng từ máy bay.[7]
Chiếc tàu ngầm được người Đức trang bị máy dò radar Metox, và thay thế pháo phòng không Type 96 25-mm bằng kiểu Mauser "Flakvierling 38" 20-mm bốn nòng.[7] Hàng hóa được I-30 chuyển trở về Nhật Bản bao gồm bản vẽ và một bộ hoàn chỉnh radar phòng không Würzburg, năm ngư lôi G7a và ba ngư lôi G7e, năm máy tính dữ liệu thủy lôi, súng chống tăng, bộ điều khiển hỏa lực phòng không Zeiss, 50 máy mật mã Enigma cùng số kim cương công nghiệp trị giá một triệu yên Nhật.[7]I-30 để lại chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y như là một quà tặng cho Đức trước khi khởi hành từ Lorient vào ngày 22 tháng 8 cho hành trình quay trở về Nhật Bản, vận chuyển một hành khách là kỹ sư Nhật Bản.[7]
Bị đánh chìm
I-30 về đến căn cứ Penang vào ngày 8 tháng 10, nơi nó được tiếp nhiên liệu và tiếp liệu, rồi tiếp tục đi sang Singapore, đến nơi vào sáng sớm ngày 13 tháng 10. Nó lên đường lúc 16 giờ ngày hôm đó cho hành trình quay trở về Nhật Bản, nhưng ở vị trí chỉ cách 3 dặm ngoài khơi Keppel Harbour, chiếc tàu ngầm trúng phải một quả thủy lôi Anh và đắm với tổn thất 13 người trên tàu. Thợ lặn Nhật Bản đã tìm các thu hồi một số hàng hóa, bao gồm phần lớn các khẩu pháo 20 mm, máy tính dữ liệu thủy lôi, cũng như bản vẽ radar, nhưng chúng không thể sử dụng sau khi đã bị ngâm lâu trong nước biển. Thiết bị radar đã bị hư hại hoàn toàn.[7]
Sau khi chiến tranh chất dứt, xác tàu đắm của I-30 được hãng Hokusei Sempaku Kogyo K.K. trục vớt và tháo dỡ từ tháng 8, 1959 đến tháng 2, 1960.[7]
Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN978-1-4728-4779-9.
Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN978-1-84603-090-1.
Liên kết ngoài
“I-30 ex I-35 ex No-143”. ijnsubsite.com. 10 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2024.