Sơn ca là các loài chim nhỏ sống trên mặt đất, thường có giọng hót mê hoặc và kiểu bay liệng kì dị. Điều này kết hợp với việc chúng hay sinh sống gần các khu dân cư— đã đảm bảo cho sơn ca một vị trí nổi bật trong văn chương và âm nhạc (ví dụ sơn ca được ca tụng trong "The Lark Ascending" (1914) của Ralph Vaughan Williams).
Các loài sơn ca làm tổ trên mặt đất, đẻ 2–6 trứng vỏ đốm. Như nhiều loài chim sống trên mặt đất khác, phần lớn các loài sơn ca có các vuốt chân sau dài, được người ta coi là giúp chúng ổn định hơn khi đứng.
Phần lớn các loài sơn ca có vẻ ngoài kém nổi bật. Chúng ăn sâu bọ và hạt.
Chim sơn ca là biểu tượng cho hạnh phúc, hy vọng, may mắn, tự do, niềm vui, tuổi trẻ, tính sáng tạo và ngày mới. Trong haiku của người Nhật, sơn ca hay 雲雀 (vân tước, ヒバリhibari) là từ để chỉ mùa xuân trong năm. Đối với người Trung Quốc, có một tín ngưỡng dân gian cho rằng sơn ca (tiếng Trung gọi là bách linh/bạch linh (百灵/白灵) hay vân tước (雲雀)) là linh hồn của người ta trở về từ cõi chết. Nó được thể hiện trong thành ngữ: 死了变成白灵鸟, 飞来也要卯亲亲 (tử liễu biến thành bạch linh điểu, phi lai dã yếu mão thân thân: chết đi biến thành chim bạch linh, buổi sớm bay đến thăm người thân).
Sơn ca là họ được định nghĩa khá rõ ràng, một phần là do hình dáng khối xương cổ chân của chúng[3]. Trong một thời gian dài người ta đã xếp họ này tại/gần điểm khởi đầu của chim biết hót (Oscines, hiện nay thường gọi là Passeri) trong cây tiến hóa, chỉ ngay sau nhóm chim cận biết hót (Suboscines, hiện nay thường gọi là Tyranni) và trước các loài nhạn (Hirundinidae), chẳng hạn như trong danh lục đầu tiên của Hiệp hội Điểu học Hoa Kỳ (AOU) vào năm 1886[4][5]. Một số tổ chức khác, như Hiệp hội Điểu học Anh (BOU)[6] cũng như sách Handbook of the Birds of the World, trung thành với điều này. Tuy nhiên, nhiều phân loại khác tuân theo phân loại Sibley-Ahlquist trong việc đặt sơn ca trong một phân nhóm lớn của chim biết hót là Passerida (nhóm loại trừ các loài quạ, bách thanh và các đồng minh của chúng, Vireonidae (vireo) và nhiều nhóm chim đặc trưng khác của khu vực Australia và Đông Nam Á). Chẳng hạn, Hiệp hội Điểu học Hoa Kỳ đặt sơn ca ngay sau quạ, bách thanh và vireo. Ở cấp độ chi tiết hơn, hiện nay một số tác giả đặt sơn ca ở gần như mức bắt đầu của siêu họ Sylvioidea cùng với các loài nhạn, các nhóm "chích Cựu thế giới" và "khướu và họa mi" khác nhau[7][8].
Sơn ca bờ biển hay sơn ca sừng, Eremophila alpestris. Phức hợp loài. Có thể gồm 3 nhóm là longirostris (argalea, teleschowi, przewalskii, nigrifrons, deosaiensis, longirostris, elwesi, khamensis), penicillata (atlas, balcanica, kumerloevei, penicillata, bicornis, albigula) và alpestris (flava, brandti và tất cả các phân loài Tân thế giới).
Sơn ca cánh trắng, Alauda leucoptera. Chuyển từ Melanocorypha. Có thể là chị em với phần còn lại của Alauda (giống về tập tính, sinh thái, hình thái và tiếng hót) hoặc là chị em với nhánh chứa Alauda và Galerida.
^The American Ornithologists' Union (6-1886). “The American Ornithologists' Union Check-List of North American Birds”. The American Naturalist. 20 (6): 539. doi:10.1086/274272. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
^Per Alström; Ericson Per G.P.; Olsson Urban; Sundberg Per (tháng 2 năm 2006). “Phylogeny and classification of the avian superfamily Sylvioidea”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 38 (2): 381–397. doi:10.1016/j.ympev.2005.05.015. PMID16054402.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)