Asphodelaceae là một danh pháp thực vật cho một họ trong thực vật có hoa. Họ này được rất ít các nhà phân loại học công nhận và định nghĩa của nó thay đổi theo hệ thống phân loại được sử dụng[1]. Trong một số tài liệu về thực vật học bằng tiếng Việt người ta gọi họ này là họ Lô hội, lấy theo tên chi Aloe, tuy nhiên trong Wikipedia lấy theo tên gọi của chi điển hình là chi Asphodelus (lan nhật quang), do vậy bài này có tiêu đề là họ Lan nhật quang.
Hệ thống APG II năm 2003 không công nhận họ này nhưng cho phép nó có thể được tách ra từ họ Xanthorrhoeaceae, như là một tùy chọn. Khi được chấp nhận tách ra thì theo APG II nó được đặt trong bộ Asparagales, thuộc nhánh monocots (thực vật một lá mầm). Đây là một thay đổi nhỏ so với hệ thống APG năm 1998, trong đó người ta công nhận họ này.
Hệ thống APG III năm 2009 không công nhận họ này và cũng không cho phép nó có thể được tách ra từ họ Xanthorrhoeaceae mà chỉ coi nó như là phân họ Asphodeloideae.
Quyết định bảo tồn tên Asphodelaceae thay vì Xanthorrhoeaceae (được thông qua vào năm 2017), hệ thống APG IV sử dụng Asphodelaceae làm tên cho họ mở rộng.
Theo Website của AP, phân họ này hiện nay bao gồm khoảng 21 chi, với khoảng 785 loài. Chi được biết đến nhiều nhất là chi Aloe (hay Aloë - tức chi chứa khoảng 400 loài lô hội). Phân họ này có nguồn gốc ở châu Phi và lưu vực Địa Trung Hải tới khu vực Trung Á, với một chi (Bulbinella) có ở New Zealand. Sự đa dạng lớn nhất có ở Nam Phi.
Nhiều nhà phân loại học cho rằng Asphodeloideae có thể phân chia tiếp thành một nhóm đơn ngành là Alooideae (bao gồm Aloe, Astroloba, Chamaealoe, Gasteria, Haworthia, Lomatophyllum và Poellnitzia[2]), và một nóm không đơn ngành bao gồm các chi còn lại[2][3][4]. Alooideae chủ yếu là thực vật mọng nước có lá mọc thành hình nơ hoa hồng nhiều tầng, trong khi các chi khác thì không là thực vật mọng nước. Các chi thuộc Alooideae tập trung ở miền nam châu Phi, trong khi các chi khác lại có sự phân bố chủ yếu là thuộc khu vực đại lục Á-Âu[4].
Các chi
Aloe hay Aloë: Lô hội (bao gồm cả Busipho, Chamaealoe, Leptaloë, Pachidendron, Ptyas): Khoảng 400 loài.
^Chase, M.W.; Reveal, J.L. & Fay, M.F. (2009), “A subfamilial classification for the expanded asparagalean families Amaryllidaceae, Asparagaceae and Xanthorrhoeaceae”, Botanical Journal of the Linnean Society, 161 (2): 132–136, doi:10.1111/j.1095-8339.2009.00999.x
^ abcdeM.W. Chase & A. Y. De Bruijn, A. V. Coz, C. Reeves, P.J. Rudall, M. A. T. Johnson, L. E. Eguiarte (2000). “Phylogenetics of Asphodelaceae (Asparagales): An analysis of plastid rbcL and trnL-F DNA sequences”. Annals of Botany. 86 (5): 935–951. doi:10.1006/anbo.2000.1262.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Smith, G. F.; B. E. Van Wyk (1991). “Generic Relationships in the Alooideae (Asphodelaceae)”. Taxon. 40 (4): 557–581. doi:10.2307/1222765.
^ abTreutlein, J.; G. F. Smith; B. E. van Wyl; M. Wink (2003). “Evidence for the polyphyly of Haworthia (Asphodelaceae subfamily Alooideae; Asparagales) inferred from nucleotide sequences of rbcL, matK, ITS1 and genomic fingerprinting with ISSR-PCR”. Plant Biology. 5 (5): 513–521. doi:10.1055/s-2003-44793.