Havock bắt đầu hộ tống các đoàn tàu tiếp liệu đến Tobruk, Libya vào tháng 6 cho đến khi bị hư hại vào tháng 10. Nó được sửa chữa kịp thời để hộ tống vận tải đến Malta trong trận Sirte thứ nhất vào tháng 12, và đã bị hư hại nặng đang khi bảo vệ một đoàn tàu vận tải khác trong trận Sirte thứ hai vào tháng 3 năm 1942. Việc sửa chữa thoạt tiên được thực hiện tại Malta, nhưng con tàu lại bị hư hại thêm do một cuộc không kích vào đầu tháng 4. Bộ Hải quân Anh ra lệnh cho nó đi đến Gibraltar để tiếp tục sửa chữa. Tuy nhiên, trên đường đi vào ngày 6 tháng 4, Havock mắc cạn gần mũi Bon, và thủy thủ đoàn bị phe Vichy Pháp bắt làm tù binh tại Laghouat trong sa mạc Sahara.
Havock có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.340 tấn Anh (1.360 t), và lên đến 1.859 tấn Anh (1.889 t) khi đầy tải. Nó có chiều dài chung 323 foot (98,5 m), mạn thuyền rộng 33 foot (10,1 m) và độ sâu của mớn nước là 12 foot 5 inch (3,8 m). Nó được dẫn động bởi hai turbine hơi nướcParsons truyền động ra hai trục chân vịt, sản sinh tổng công suất 34.000 mã lực càng (25.000 kW), cho phép nó đạt tốc độ tối đa 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph). Hơi nước được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. Havock có thể mang theo tối đa 470 tấn Anh (480 t) dầu đốt, cho phép một tầm hoạt động tối đa 5.530 hải lý (10.240 km; 6.360 mi) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph). Thành phần thủy thủ đoàn của nó bao gồm 137 sĩ quan và thủy thủ trong thời bình,[1] nhưng tăng lên đến 146 người trong thời chiến.[2]
Bắt đầu từ giữa năm 1940 sau cuộc triệt thoái Dunkirk, dàn vũ khí phòng không của con tàu được tăng cường, cho dù không thể biết được đích xác thời điểm được nâng cấp. Bệ ống phóng ngư lôi phía sau được thay bằng một khẩu QF 12 pounder 3 inch (76,2 mm) phòng không, và các khẩu đội súng máy Vickers bốn nòng được thay bằng pháo tự độngOerlikon 20 mm, đồng thời hai khẩu Oerlikon 20 mm khác được tăng cường trên bệ đèn pha và một cặp khác hai bên cánh của cầu tàu.[6]
Trong Trận Narvik thứ nhất vào ngày 10 tháng 4 năm 1940, Havock cùng bốn tàu khu trục lớp H khác thuộc Chi hạm đội Khu trục 2 đã tấn công các tàu khu trục Hải quân Đức vốn đã vận chuyển binh lính Lục quân Đức sang xâm chiếm Narvik ở miền Bắc Na Uy vào ngày hôm trước. Tàu khu trục Hardy, soái hạm của lực lượng, dẫn đầu bốn tàu chị em xâm nhập Ofotfjord cho một đợt tấn công bất ngờ lên cảng Narvik trong một cơn bão tuyết. Hotspur và Hostile thoạt tiên được bố trí ở lối ra vào, Havock đứng thứ ba tiến vào cảng và đã phóng năm quả ngư lôi nhắm vào khối tàu địch. Một quả đánh trúng phía đuôi tàu khu trục Đức Z22 Anton Schmitt, đồng thời nó cũng bắn trúng chiếc Z18 Hans Lüdemann hai lần với đạn pháo 4,7 inch (120 mm). Khi các con tàu Anh rút lui, chúng đụng độ với năm tàu khu trục Đức ở khoảng cách ngắn; hai tàu đối phương đã cắt ngang chữ T các con tàu Anh và bắn trúng Hardy, khiến nó bốc cháy và phải mắc cạn. Havock đứng thứ hai trong hàng, và đã phóng ngư lôi vào tàu địch, nhưng tất cả đều bị trượt. Nó bị bắn trả trúng đích, nhưng hư hại không đáng kể. Trong lúc nhầm lẫn và tầm nhìn giới hạn, Havock rời đội hình để xem việc gì đã xảy ra với Hardy và để bảo vệ cho đoạn hậu của đội hình Anh đang bị ba tàu khu trục Đức khác truy đuổi, nhưng rồi phải quay lại để khai hỏa các khẩu pháo phía đuôi sau khi các khẩu trước mũi bị hỏng. Havock và Hostile quay lại để trợ giúp tàu chị em Hotspur, và cả ba rút lui khỏi Ofotfjord. Trên đường đi, chúng bắt gặp tàu tiếp liệu Đức chất đầy pháo và đạn dược, mà thủy thủ đoàn của nó cho tàu mắc cạn và bỏ tàu sau khi Hostile nổ súng vào nó. Một đội đổ bộ từ Havock đã lên tàu và thấy nó đang bốc cháy, con tàu Đức nổ tung sau khi trúng hai phát đạn của Havock.[9] Con tàu tiếp tục ở lại vùng biển Na Uy cho đến cuối tháng 5, hộ tống cho tàu tuần dương hạng nhẹHMS Birmingham khi chiếc này càn quét bất thành tại Bắc Hải truy tìm tàu bè Đức.[10]
Havock được điều về Bộ chỉ huy Nore không lâu sau đó, và đã cùng tàu chị em Hyperion bắn phá vào lực lượng Đức đang chiếm đóng sân bay Waalhaven vào ngày 10 tháng 5. Nó cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu phà Prinses Juliana bị đắm ngoài khơi bờ biển Hà Lan và đưa họ trở lại Hook of Holland, nơi nó tiếp đón một số đội lính phá hoại Anh. Đến ngày 16 tháng 5, nó được điều động tăng cường cho Hạm đội Địa Trung Hải tại Malta và được chuyển sang Chi hạm đội Khu trục 2. Trong trận chiến mũi Spada vào ngày 19 tháng 7, nó đã hộ tống cho chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ AustraliaHMAS Sydney, và đã cùng các tàu khu trục hộ tống khác cứu vớt khoảng 525 người sống sót từ chiếc tàu tuần dương Ý Bartolomeo Colleoni. Phòng nồi hơi của nó bị ngập nước sau một đợt không kích của máy bay Ý sau trận này, và nó được sửa chữa tại Suez từ ngày 29 tháng 7 đến ngày 15 tháng 9. Ngoài khơi bờ biển Ai Cập, Havock và tàu chị em Hasty đã tấn công bất ngờ tàu ngầm Ý Berillo trên mặt nước vào ngày 2 tháng 10, buộc nó phải tự đánh đắm.[11] Các tàu khu trục đã cứu được 47 người sống sót.[11]
Vào giữa tháng 12, Havock hộ tống cho chiếc tàu tiếp tế Breconshire đi Malta trong khi diễn ra cuộc đụng độ ngắn mang tên Trận Sirte thứ nhất, rồi gia nhập Lực lượng K với dự định chặn đánh một đoàn tàu vận tải Ý đi đến Tripoli, Libya. Trong đêm 18-19 tháng 12, Lực lượng K được tăng cường lọt vào một bãi mìn của Ý, bị mất một tàu tuần dương và hư hại thêm hai chiếc khác. Havock đã hộ tống chiếc tàu tuần dương hạng nhẹAurora bị hư hại nặng quay trở lại Malta.[18]Havock là một trong số bốn tàu khu trục đã hộ tống Breconshire quay trở lại Alexandria vào đầu tháng 1 năm 1942.[12] Đang khi hộ tống một đoàn tàu vận tải khác đến Malta, nó được lệnh chuyển hướng để hộ tống cho chiếc tàu chở dầu Thermoplylae bị hư hại đi từ Benghazi quay trở lại Alexandria, nhưng chiếc này bị máy bay phe Trục tấn công và đánh chìm trên đường đi vào ngày 19 tháng 1. Havock đã cứu khoảng 350 người sống sót trước khi Thermoplylae bị đắm.[19] Con tàu được chuyển sang Chi hạm đội Khu trục 22 vào tháng 2, và tiếp tục hộ tống các đoàn tàu vận tải đi đến Malta.[12] Vào ngày 22 tháng 3 năm 1942, mảnh đạn từ một phát đạn pháo suýt trúng từ thiết giáp hạm Ý Littorio đã xuyên thủng một trong các nồi hơi của nó trong Trận Sirte thứ hai, và Havock phải đi đến Malta để sửa chữa.[20] Đang khi ở trong ụ tàu, nó trở thành một mục tiêu chính cho các cuộc tấn công của máy bay phe Trục và chịu thêm những hư hại vào ngày 3 tháng 4, nên nó được lệnh đi đến Gibraltar trước khi việc sửa chữa hoàn tất. Havock bị mắc cạn ngoài khơi Kelibia, Tunisia, trong eo biển Sicily vào ngày 6 tháng 4, và bị đắm ở tọa độ 36°52′18″B11°8′24″Đ / 36,87167°B 11,14°Đ / 36.87167; 11.14000. Một thủy thủ thiệt mạng trong sự cố này; thủy thủ đoàn và hành khách bị phe Vichy Pháp bắt làm tù binh và giam giữ tại Laghouat ở Sahara,[21] nhưng được thả ra vào tháng 11 do kết quả của Chiến dịch Torch.[12] Xác tàu của Havock sau đó bị tàu ngầm Ý Aradam phóng ngư lôi phá hủy.[22]
English, John (1993). Amazon to Ivanhoe: British Standard Destroyers of the 1930s. Kendal, England: World Ship Society. ISBN0-905617-64-9.
Friedman, Norman (2009). British Destroyers From Earliest Days to the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-081-8.
O'Hara, Vincent P. (2009). Struggle for the Middle Sea: The Great Navies at War in the Mediterranean Theater, 1940–1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-648-3.
Lenton, H. T. (1998). British & Commonwealth Warships of the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN1-55750-048-7.
Shores, Christopher (1987). Air War for Yugoslavia, Greece, and Crete. Cull, Brian and Malizia, Nicola. London: Grub Street. ISBN0-948817-07-0.
United Kingdom, Admiralty Historical Section (2002). The Royal Navy and the Mediterranean. Whitehall Histories, Naval Staff Histories. 2, November 1940 – December 1941. London: Whitehall History in association with Frank Cass. ISBN0-7146-5205-9.