Delight có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.375 tấn Anh (1.397 t), và lên đến 1.890 tấn Anh (1.920 t) khi đầy tải. Nó có chiều dài chung 329 foot (100,3 m), mạn thuyền rộng 33 foot (10,1 m) và mớn nước 12 foot 6 inch (3,8 m). Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất 36.000 mã lực càng (27.000 kW) cho phép đạt tốc độ tối đa 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph). Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất 310 psi (2.137 kPa). Delight mang theo tối đa 473 tấn Anh (481 t) dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động 5.870 hải lý (10.870 km; 6.760 mi) ở tốc độ đường trường 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph). Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.[2]
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF 4,7 in (120 mm) Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, Delight có một khẩu QF 12-pounder Mk V bố trí giữa hai ống khói và hai khẩu đội súng máy QF 0.5-inch Vickers Mk III bốn nòng đặt ở hai bên cánh cầu tàu. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi 21 in (530 mm).[3] Một đường ray và hai máy phóng được dùng để thả mìn sâu, thoạt tiên mang theo 20 quả mìn, nhưng được tăng lên 35 quả không lâu sau khi chiến tranh bắt đầu.[4]
Nó được tái trang bị cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1940 trước khi gia nhập Chi hạm đội Khu trục 3. Delight bị hư hại do thời tiết xấu vào ngày 8 tháng 4, buộc phải quay về cảng để sửa chữa.[6] Trong Chiến dịch Na Uy, Delight hộ tống cho tàu sân bayHMS Furious khi nó quay về Scapa Flow vào ngày 25 tháng 4 để bổ sung máy bay. Vào ngày 1 tháng 5, nó chuyển binh lính đến các tàu tuần dương hạng nhẹHMS Manchester và HMS Birmingham thuộc Hải đội Tuần dương 18 trong cuộc triệt thoái khỏi Åndalsnes. Delight hỗ trợ cho binh lính Đồng Minh vào các ngày 27–28 tháng 5 khi họ tái chiếmNarvik trước khi nó được gửi đến Bodø vào ngày hôm sau xác minh báo cáo về việc quân Đức đổ bộ. Trong hai đêm tiếp theo, nó cùng bảy tàu khu trục khác giúp triệt thoái binh lính Anh khỏi Bodø. Vào ngày 7-8 tháng 6, Delight hộ tống một đoàn tàu vận tải triệt thoái binh lính Anh khỏi Narvik (Chiến dịch Alphabet).[7]
Con tàu đã đi đến hỗ trợ cho chiếc tàu buôn tuần dương vũ trangHMS Scotstoun sau khi nó trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Đức U-25 vào ngày 13 tháng 6. Lò đốt siêu nhiệt của nó được thay thế tại Rosyth từ ngày 21 tháng 6 đến ngày 24 tháng 7. Sau khi rời cảng Portland vào ban ngày bất chấp lệnh cấm, con tàu bị dàn radar Freya tại Cherbourg phát hiện, và Không quân Đức được báo động. Ở vị trí cách 20 dặm (32 km) ngoài khơi Portland Bill, nó bị 16 máy bay Đức tấn công. Một quả bom đã đánh trúng sàn trước, gây một đám cháy và sau đó là một vụ nổ. Con tàu bị đắm chiều tối ngày hôm đó, với sáu thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng trong vụ tấn công.[6]
Xác tàu đắm của Delight nằm ở độ sâu 62 mét (203 ft), bị vỡ ra nhiều mảnh. Phần giữa con tàu bị lật úp, mũi tàu bị vỡ, và đuôi tàu ở tư thế thẳng đứng.[8] Do xác tàu được chỉ định là một địa điểm được bảo vệ theo Luật bảo vệ di sản quân sự 1986, không được phép đi vào xác tàu hoặc vùng mảnh vỡ mà không có giấy phép.[9]
Tham khảo
Chú thích
^The Times (London), Thursday, ngày 2 tháng 6 năm 1932, p. 9
English, John (1993). Amazon to Ivanhoe: British Standard Destroyers of the 1930s. Kendal, England: World Ship Society. ISBN0-905617-64-9.
Friedman, Norman (2009). British Destroyers From Earliest Days to the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-081-8.
Haarr, Geirr H. (2010). The Battle for Norway: April–June 1940. Annapolis, MD: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-051-1.
Lenton, H. T. (1998). British & Commonwealth Warships of the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN1-55750-048-7.