Cygnet có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.375 tấn Anh (1.397 t), và lên đến 1.865 tấn Anh (1.895 t) khi đầy tải. Nó có chiều dài chung 329 foot (100,3 m), mạn thuyền rộng 33 foot (10,1 m) và mớn nước 12 foot 6 inch (3,8 m). Con tàu được cung cấp động lực bởi hai turbine hơi nước hộp số Parsons, dẫn động hai trục chân vịt, tạo ra công suất 36.000 mã lực càng (27.000 kW) cho phép đạt tốc độ tối đa 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph). Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty hoạt động ở áp suất 300 psi (2.068 kPa) và nhiệt độ 600 °F (316 °C). Cygnet mang theo tối đa 473 tấn Anh (481 t) dầu đốt cho phép nó có tầm xa hoạt động 5.500 hải lý (10.200 km; 6.300 mi) ở tốc độ đường trường 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph). Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 145 sĩ quan và thủy thủ.[1]
Chiếc tàu khu trục được trang bị bốn khẩu pháo QF 4,7 in (120 mm) Mk IX trên các tháp pháo đơn, được đặt tên 'A', 'B', 'X' và 'Y' tuần tự từ trước ra sau. Cho mục đích phòng không, Cygnet có một khẩu QF 3 inch 20 cwt[Note 1] giữa hai ống khói và hai khẩu QF 2-pounder 40 milimét (1,6 in) Mk II phía sau sàn trước. Pháo 3-inch được tháo dỡ vào năm 1936, và các khẩu 2-pounder được tái bố trí trên các bệ giữa hai ống khói. Nó còn được trang bị hai bệ ống phóng ngư lôi bốn nòng trên mặt nước dùng cho ngư lôi 21 in (530 mm).[2] Ba cầu trượt được dùng để thả mìn sâu, mỗi chiếc chứa được hai quả mìn. Sau khi Thế Chiến II nổ ra, số mìn sâu mang theo được tăng lên 33 quả, được thả bởi một đường ray và hai máy phóng.[3]
Các cải biến khác cho con tàu trong chiến tranh thoạt tiên bao gồm việc thay thế tháp pháo 'B' bằng một dàn cốiHedgehogchống tàu ngầm; thay thế hai dàn súng máy.50 calibre Vickers bốn nòng giữa hai ống khói bởi hai khẩu Oerlikon 20 mm phòng không; bổ sung hai khẩu Oerlikon trên bệ đèn pha cùng hai khẩu Oerlikon khác hai bên cánh của cầu tàu, và tháo dỡ khẩu pháo phòng không 12-pounder. Một bộ radar bước sóng mét Kiểu 286 dò tìm mặt đất tầm ngắn cũng được bổ sung;[4] tháp pháo 'Y' được tháo dỡ lấy chỗ để chứa thêm mìn sâu lên ít nhất 60 quả.[5]
Vào ngày 9 tháng 6, St. Laurent được lệnh đi đến Le Havre, Pháp để triệt thoái binh lính Anh, nhưng không tìm thấy ai, nên nó giúp giải cứu một nhóm nhỏ binh lính Pháp phía trên bờ biển vào ngày 11 tháng 6. Con tàu chịu đựng hỏa lực của một khẩu đội pháo Đức gần Saint-Valery-en-Caux, nhưng không bị bắn trúng, và chỉ huy của con tàu, Thiếu tá Hải quânH.G. DeWolf, đã ra lệnh bắn trả cho dù kết quả không được ghi nhận. Sau khi quay về Anh, St. Laurent hộ tống nhiều đoàn tàu vận tải chở binh lính trong chặng cuối cùng của hành trình từ Canada, Australia và New Zealand vào giữa tháng 6, rồi được phân công nhiệm vụ hộ tống cùng Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây sau đó.[11]
Sau khi được tái trang bị tại Halifax từ ngày 3 tháng 3 đến ngày 11 tháng 7 năm 1941, St. Laurent được phân về Đội hộ tống 14 thuộc Lực lượng Hộ tống Newfoundland của Hải quân Hoàng gia Canada bảo vệ các đoàn tàu vận tải tại khu vực giữa Đại Tây Dương.[8] Đang khi hộ tống Đoàn tàu vận tải ON 33 vào tháng 11, nó bị hư hại nặng do một cơn cuồng phong, buộc phải quay về Halifax để sửa chữa.[13]St. Laurent được chuyển sang Lực lượng Hộ tống Giữa đại dương vào tháng 12, ở lại đây cho đến tháng 3 năm 1943. Nó trải qua một đợt tái trang bị kéo dài tại Halifax trong tháng 4-tháng 8 năm 1942.[8] Đến đầu tháng 12 năm 1942, bộ điều khiển hỏa lực và máy đo tầm xa đặt trên nóc cầu tàu được thay thế bằng radar dò tìm mục tiêu Kiểu 271; và cũng vào lúc này nó được trang bị hệ thống định vị vô tuyến cao tần. Được phân về Đội hộ tống C1 để bảo vệ Đoàn tàu vận tải ON 154 vào cuối tháng 12 năm 1942, St. Laurent có được chiến công đầu tiên vào ngày 27 tháng 12 năm 1942 khi được ghi nhận đã đánh chìm tàu ngầm U-356 ở phía Bắc Azores.[14]
Đến tháng 5 năm 1944, nó được điều sang Đội hộ tống 11 để hỗ trợ cho cuộc Đổ bộ Normandy của phe Đồng Minh. Đúng ngày D 6 tháng 6 năm 1944, nó cùng các tàu khu trục Canada: HMCS Chaudière, HMCS Gatineau, HMCS Kootenay và HMCS Ottawa được bố trí tại lối ra vào eo biển Anh Quốc ngăn chặn các cuộc tấn công của tàu ngầm U-boat đối phương nhắm vào các đoàn tàu vận tải đổ bộ; rồi sau đó được bố trí cùng nhóm của nó tại vịnh Biscay trong các hoạt động chống tàu ngầm. Vào ngày 8 tháng 8, nó bị một quả bom lượn đối phương tấn công bất thành, và vào ngày 13 tháng 8, nó cùng Ottawa cứu vớt những người sống sót từ chiếc tàu ngầm U-270 vốn bị đánh chìm bởi mìn sâu thả từ một máy bay Sunderland. Những nhiệm vụ này kéo dài cho đến tháng 10, khi nó quay trở về Canada để tái trang bị. Việc đại tu tiến hành tại Shelburne, Nova Scotia kéo dài từ tháng 11 năm 1944 đến 20 tháng 3 năm 1945. Sau đó St. Laurent quay trở lại phục vụ tháng 4 năm 1945, được điều về Lực lượng Hộ tống Halifax với vai trò bảo vệ vận tải ngoài khơi bờ biển phía Đông Canada. Sau khi Đức đầu hàng vào ngày 6 tháng 5, nó được sử dụng vào việc vận chuyển binh lính hồi hương cho đến khi ngừng hoạt động vào ngày 10 tháng 10 năm 1945. St. Laurent được bán và tháo dỡ vào năm 1947.[8]
Tham khảo
Ghi chú
^"cwt" là viết tắt của hundredweight, 30 cwt cho biết trọng lượng khẩu pháo.
^Douglas 2002, tr. 568–570Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFDouglas2002 (trợ giúp)
Thư mục
Douglas, W. A. B.; Sarty, Roger (2002). No Higher Purpose. The Official Operational History of the Royal Canadian Navy in the Second World War, 1939–1943. 2, pt. 1. Michael Whitby, Robert H. Caldwell, William Johnston, William G. P. Rawling. St. Catharines, Ontario: Vanwell. ISBN1-55125-061-6.
English, John (1993). Amazon to Ivanhoe: British Standard Destroyers of the 1930s. Kendal, England: World Ship Society. ISBN0-905617-64-9.
Friedman, Norman (2009). British Destroyers From Earliest Days to the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-081-8.
Lenton, H. T. (1998). British & Commonwealth Warships of the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN1-55750-048-7.