Công ước chống Tra tấn của Liên Hợp Quốc, tên đầy đủ là Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (tiếng Anh: United Nations Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment; UNCAT) là một trong Các văn kiện nhân quyền quốc tế và khu vực, nhằm mục đích phòng chống tra tấn trên toàn thế giới dưới sự duyệt xét lại của Liên Hợp Quốc,
Công ước này đòi các nước phải có biện pháp hữu hiệu để phòng chống tra tấn trong nước mình, và nghiêm cấm các nước trả lại người về đất nước của họ nếu có lý do để tin rằng (ở đó) họ sẽ bị tra tấn.
Bản văn Công ước đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc chấp thuận ngày 10.12.1984[1] và, tiếp sau sự phê chuẩn của nước ký kết thứ 20,[2] thì Công ước đã bắt đầu có hiệu lực từ ngày 26.6.1987.[1] Ngày 26 tháng 6 nay được công nhận là Ngày quốc tế ủng hộ các nạn nhân bị tra tấn (International Day in Support of Torture Victims) để vinh danh Công ước này.
Tới tháng 9 năm 2010, Công ước đã có 147 bên ký kết.[1]
Phần I (các điều 1–16) định nghĩa Tra tấn (điều 1), và các bên ký kết phải có các biện pháp hữu hiệu để phòng chống bất cứ hành động tra tấn trong bất cứ lãnh thổ nào dưới thẩm quyền pháp lý của mình (điều 2). Các điều khoản trên bao gồm việc bảo đảm rằng tra tấn được coi là một tội hình sự (Điều 4), việc thiết lập quyền thi hành pháp luật đối với các hành vi tra tấn một công dân của bên ký kết hoặc do một công dân của bên ký kết vi phạm (tội tra tấn) (Điều 5), việc bảo đảm rằng tra tấn là một tội có thể bị dẫn độ (Điều 8), và việc thiết lập [quyền thi hành pháp luật phổ quát] để xét xử các vụ tra tấn tại nơi một kẻ phạm tội tra tấn không thể bị dẫn độ (Điều 5). Các bên ký kết phải kịp thời điều tra mọi cáo buộc tra tấn (các Điều 12 và 13), và các nạn nhân bị tra tấn phải có quyền được bồi thường (Điều 14). Các bên cũng phải cấm sử dụng chứng cớ do tra tấn (mà có) ở các tòa án của mình (Điều 15), và ngăn chặn việc trục xuất, dẫn độ hoặc trả lại người về nơi mà có cơ sở để tin rằng họ sẽ bị tra tấn (Điều 3). Các bên ký kết cũng có nghĩa vụ phòng chống việc trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá khác, và điều tra bất kỳ cáo buộc nào về việc đối xử như vậy trong thẩm quyền pháp lý của mình (Điều 16)
Phần II (Điều 17 – 24) nói về việc báo cáo và giám sát Công ước và các bước do các bên tiến hành để thực hiện công ước. Phần này thiết lập Ủy ban chống Tra tấn (Điều 17), và trao quyền cho ủy ban để điều tra các cáo buộc tra tấn có hệ thống (Điều 20). Nó cũng thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp tùy chọn giữa các bên (Điều 21) và cho phép các bên công nhận thẩm quyền của Ủy ban được nghe các khiếu nại, khiếu tố của các cá nhân về việc vi phạm Công ước của một bên ký kết (Điều 22).
Phần III (Điều 25 – 33) nói về việc phê chuẩn, đi vào hiệu lực, và tu chính Công ước. Nó cũng bao gồm một cơ chế trọng tài tùy chọn (không bắt buộc) đối với tranh chấp giữa các bên (Điều 30)
Các quy định chính
Định nghĩa tra tấn
Điều 1 của Công ước định nghĩa tra tấn như sau:
(Tra tấn) là bất kỳ hành động nào tạo ra sự đau đớn nặng nề hoặc đau khổ - dù thể xác hay tâm thần - do cố ý gây ra cho một người nhằm các mục đích là đạt được thông tin hay một lời thú nhận từ anh ta hoặc một người thứ ba, trừng phạt anh ta vì một hành động mà anh ta hoặc người thứ ba đã phạm hoặc bị nghi là đã phạm, hoặc đe dọa, ép buộc anh ta hoặc một người thứ ba, hoặc đối với bất kỳ lý do nào dựa trên sự phân biệt đối xử bất kỳ loại nào, khi nỗi đau đớn hay đau khổ như vậy gây ra bởi - hoặc theo sự xúi giục - hoặc với sự đồng ý - hoặc chấp thuận - của một quan chức hoặc người khác hành động trên cương vị chính quyền. Nó không bao gồm sự đau đớn hoặc đau khổ ngẫu nhiên hoặc vốn có khi bị các hình phạt đúng theo luật.
— Công ước chống Tra tấn, Điều 1,1
Các hành động chưa tới mức tra tấn vẫn có thể cấu thành tội đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc làm mất phẩm giá theo Điều 16.
Cấm tra tấn và Đối xử tàn nhẫn làm mất phẩm giá
Điều 2 của Công ước cấm việc tra tấn, và yêu cầu các bên ký kết phải có các biện pháp hữu hiệu để phòng chống tra tấn ở bất cứ lãnh thổ nào dưới thẩm quyền pháp lý của mình. Việc cấm này là tuyệt đối và không được vi phạm.
"Không có bất cứ trường hợp đặc biệt (ngoại lệ) nào"[5] có thể được viện dẫn để biện minh cho tra tấn, bao gồm cả chiến tranh, mối đe dọa của chiến tranh, bất ổn chính trị nội bộ, tình trạng khẩn cấp chung, hành vi khủng bố, tội phạm bạo lực, hoặc bất cứ hình thức xung đột vũ trang nào.[6] Tra tấn không thể được biện minh như một phương tiện để bảo vệ an toàn công cộng hoặc ngăn chặn các trường hợp khẩn cấp [6]. Cũng không có thể được biện minh bằng các lệnh từ các sĩ quan cấp trên hoặc các quan chức.[7] Việc cấm tra tấn áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ thuộc thẩm quyền pháp lý thực sự của một bên ký kết, và bảo vệ tất cả mọi người dưới sự kiểm soát thực sự của mình, bất kể quốc tịch hoặc việc kiểm soát được thực hiện như thế nào.[6]. Kể từ khi Công ước có hiệu lực, việc cấm tuyệt đối này đã được chấp nhận như một nguyên tắc của luật quốc tế theo tập quán.[6]
Vì thường khó phân biệt giữa tra tấn và đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá, nên Ủy ban chống tra tấn coi sự cấm việc đối xử như vậy của Điều 16 là tuyệt đối và không được vi phạm.[6]
Các điều khoản khác của Phần I đưa ra các nghĩa vụ cụ thể nhằm thực thi lệnh cấm tuyệt đối này bằng cách phòng chống, điều tra và trừng phạt những hành vi tra tấn.[6]
Cấm trục xuất, dẫn độ
Điều 3cấm các bên ký kết không được trục xuất, dẫn độ hoặc trả lại bất cứ người nào về một nước "nơi mà có cơ sở chắc chắn để tin rằng họ sẽ bị nguy hiểm vì là đối tượng bị tra tấn".[8] Uỷ ban chống tra tấn cho rằng mối nguy hiểm này phải được tính đến không chỉ cho nước tiếp nhận ban đầu, mà còn cho các nước mà người này sau đó có thể bị trục xuất, trả về hoặc bị dẫn độ.[9]
Các nước ký Công ước chống Tra tấn
Bên tham gia
Ký kết
Phê chuẩn, Accession (a), Succession (d)
Afghanistan
4.2.1985
1.4.1987
Albania
.
11.5.1994 a
Algeria
26.11.1985
12.9.1989
Andorra
5.8.2002
22.9.06
Antigua và Barbuda
.
19.7.1993 a
Argentina
4 Feb 1985
24.9.1986
Armenia
.
13.9.1993 a
Úc
10.12.1985
8.8.1989
Áo
14.3.1985
29.7.1987
Azerbaijan
.
16.8.1996 a
Bahamas
16.12.08
Bahrain
.
6.3.1998 a
Bangladesh
.
5.10.1998 a
Belarus
19.12.1985
13.3.1987
Bỉ
4.2.1985
25.6.1999
Belize
.
17.3.1986 a
Benin
.
12.3.1992 a
Bolivia
4.2.1985
12.4.1999
Bosna và Hercegovina
.
1.9.1993 d
Botswana
8.9.2000
8.9.2000
Brasil
23.9.1985
28.9.1989
Bulgaria
10.6.1986
16.12.1986
Burkina Faso
.
4.01.1999 a
Burundi
.
18.2.1993 a
Cambodia
.
15.10.1992 a
Cameroon
.
19.12.1986 a
Canada
23.8.1985
24.6.1987
Cape Verde
.
4.6.1992 a
Chad
.
9.6.1995 a
Chile
23.9.1987
30.9.1988
Trung quốc
12.12.1986
4.10.1988
Colombia
10.4.1985
8.12.1987
Comoros
22.9.2000
.
Congo
.
30.7.2003 a
Costa Rica
4.2.1985
11.11.1993
Bờ Biển Ngà
.
18.12.1995 a
Croatia
.
12.10.1992 d
Cuba
27.01.1986
17.5.1995
Cyprus
9.10.1985
18.7.1991
Cộng hòa Séc
.
22.2.1993 d
Cộng hòa Dân chủ Congo
.
18.3.1996 a
Đan Mạch
4.2.1985
27.5.1987
Djibouti
.
5.11.2002 a
Cộng hòa Dominica
4.2.1985
.
Ecuador
4.2.1985
30.3.1988
Ai Cập
.
25.6.1986 a
El Salvador
.
17.6.1996 a
Equatorial Guinea
.
8.10.2002 a
Estonia
.
21 Oct 1991 a
Ethiopia
.
14.3.1994 a
Phần Lan
4.2.1985
30.8.1989
Pháp
4.2.1985
18.2.1986
Gabon
21.01.1986
8.9.2000
Gambia
23.10.1985
.
Gruzia
.
26.10.1994 a
Đức
13.10.1986
1.10.1990
Ghana
7.9.2000
7.9.2000
Hy Lạp
4.2.1985
6.10.1988
Guatemala
.
5.01.1990 a
Guinea
30.5.1986
10.10.1989
Guinea-Bissau
12.9.2000
.
Guyana
25.01.1988
19.5.1988
Tòa Thánh
.
26.6.2002 a
Honduras
.
5.12.1996 a
Hungary
28.11.1986
15.4.1987
Iceland
4.2.1985
23.10.1996
Ấn Độ
14.10.1997
.
Indonesia
23.10.1985
28.10.1998
Ireland
28.9.1992
11.4.2002
Israel
22.10.1986
3.10.1991
Ý
4.2.1985
12.01.1989
Nhật Bản
.
29.6.1999 a
Jordan
.
13.11.1991 a
Kazakhstan
.
26.8.1998 a
Kenya
.
21.2.1997 a
Kuwait
.
8.3.1996 a
Kyrgyzstan
.
5.9.1997 a
Latvia
.
14.4.1992 a
Liban
.
5.10.2000 a
Lesotho
.
12.11.2001 a
Liberia
.
22.9.2004 a
Libyan Arab Jamahiriya
.
16.5.1989 a
Liechtenstein
27.6.1985
2.11.1990
Litva
.
1.2.1996 a
Luxembourg
22.2.1985
29.9.1987
Madagascar
1.10.2001
13.12.2005
Malawi
.
11.6.1996 a
Maldives
.
20.4.2004 a
Mali
.
26.2.1999 a
Malta
.
13.9.1990 a
Mauritania
.
17.11.2004 a
Mauritius
.
9.12.1992 a
Mexico
18.3.1985
23.01.1986
Monaco
.
6.12.1991 a
Mông Cổ
.
24.01.2002 a
Montenegro
.
23.10.2006 d
Morocco
8.01.1986
21.6.1993
Mozambique
.
14.9.1999 a
Namibia
.
28.11.1994 a
Nauru
12.11.2001
.
Nepal
.
14.5.1991 a
Hà Lan
4.2.1985
21.12.1988
New Zealand
14.01.1986
10.12.1989
Nicaragua
15.4.1985
5.7.2005
Niger
.
5.10.1998 a
Nigeria
28.7.1988
28.6 2001
Na Uy
4.2.1985
9.7.1986
Pakistan
17.4.08
3.6.2010
Panama
22.2.1985
24.8.1987
Paraguay
23.10.1989
12.3.1990
Peru
29.5.1985
7.7.1988
Philippines
.
18.6.1986 a
Ba Lan
13.01.1986
26.7.1989
Bồ Đào Nha
4.2.1985
9.2.1989
Qatar
.
11.01.2000 a
Hàn Quốc
.
9.01.1995 a
Cộng hòa Moldova
.
28.11.1995 a
Romania
.
18.12.1990 a
Liên bang Nga
10.12.1985
3.3.1987
Rwanda
15.12.2008 a
Saint Vincent và Grenadines
.
1.8.2001 a
San Marino
18.9.2002
27.11.2006
São Tomé and Príncipe
6.9.2000
.
Ả Rập Saudi
.
23.9.1997 a
Senegal
4.2.1985
21.8.1986
Serbia
.
12.3.2001 d
Seychelles
.
5.5.1992 a
Sierra Leone
18.3.1985
25.4.2001
Slovakia
.
28.5.1993 d
Slovenia
.
16.7.1993 a
Somalia
.
24.01.1990 a
Nam Phi
29.01.1993
10.12.1998
Tây Ban Nha
4.2.1985
21.10.1987
Sri Lanka
.
3.01.1994 a
Sudan
4.6.1986
.
Swaziland
.
26.3.2004 a
Thụy Điển
4.2.1985
8.01.1986
Thụy Sĩ
4.2.1985
2.12.1986
Syria
.
19.8.2004 a
Tajikistan
.
11.01.1995 a
Thái Lan
.
2.10.2007 a
Macedonia
.
12.12.1994 d
Timor-Leste
.
16.4.2003 a
Togo
25.3.1987
18.11.1987
Tunisia
26.8.1987
23.9.1988
Thổ Nhĩ Kỳ
25.01.1988
2.8.1988
Turkmenistan
.
25.6.1999 a
Uganda
.
3.11.1986 a
Ukraine
27.2.1986
24.2.1987
Vương quốc Anh
15.3.1985
8.12.1988
Hoa Kỳ
18.4.1988
21.10.1994
Uruguay
4.2.1985
24.10.1986
Uzbekistan
.
28.9.1995 a
Venezuela
15.2.1985
29.7.1991
Việt Nam
7.11.2013
5.2.2015
Yemen
.
5.11.1991 a
Zambia
.
7.10.1998 a
Nghị định thư tùy chọn
Nghị định thư tùy chọn về "Công ước chống Tra tấn và Trừng phạt hoặc Đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá khác" (OPCAT), được thông qua tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào ngày 18 tháng 12 năm 2002 và có hiệu lực từ 22 tháng 6 năm 2006, quy định về việc thành lập "một hệ thống các chuyến viếng thăm thường xuyên do các cơ quan độc lập quốc tế và quốc gia thực hiện tại các nơi có người đang bị tước quyền tự do, để ngăn chặn việc tra tấn, trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo làm mất phẩm giá khác",[10] được giám sát bởi một Tiểu ban Phòng chống Tra tấn và Trừng phạt hoặc Đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá khác.
Các bên ký kết Nghị định thư tùy chọn
Tới tháng 9 năm 2010 Nghị định thư tùy chọn đã có 66 bên ký kết và 55 bên tham gia.[11]
Ủy ban chống Tra tấn
Uỷ ban chống Tra tấn (CAT) là một cơ quan gồm các chuyên gia về nhân quyền, theo dõi việc thi hành Công ước của các bên nhà nước ký kết. Ủy ban này là một trong 8 cơ quan liên kết về hiệp ước nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Tất cả các bên nhà nước ký kết có nghĩa vụ phải nộp báo cáo thường xuyên cho Ủy ban chống Tra tấn về cách thức bảo vệ nhân quyền được thi hành như thế nào. Khi phê chuẩn Công ước, các nước phải nộp một báo cáo trong vòng một năm, sau đó họ có nghĩa vụ báo cáo mỗi 4 năm. Ủy ban kiểm tra từng báo cáo và đưa ra các quan tâm và khuyến nghị của mình cho bên nhà nước ký kết dưới hình thức các "quan sát kết luận". Trong một số trường hợp, Ủy ban có thể xem xét các khiếu nại, khiếu tố hoặc các thông tin từ các cá nhân cho rằng các quyền của họ theo Công ước đã bị vi phạm.
Ủy ban chống Tra tấn thường họp vào tháng 4/ tháng 5 và tháng 11 hàng năm tại Genève.
Các thành viên của Ủy ban chống Tra tấn hiện nay:[12]