Cao Thích (chữ Hán: 高適, 702-765), tự Đạt Phu (達夫); là nhà thơ thời Thịnh Đường ở Trung Quốc. Ông cùng với Sầm Than, Vương Xương Linh, là ba gương mặt tiêu biểu trong phái thơ biên tái [1].
Cao Thích sinh ra trong một gia đình nghèo ở Bột Hải, Thương Châu (nay là huyện Thương, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc).
Năm Khai Nguyên thứ 22 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), tức năm 734, ông theo Tín An Vương lên biên tái đánh quân Khiết Đan; sau đó lại đi du ngoạn ở Tống, Lương (nay là vùng Khai Phong-Thương Khâu thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).
Ông là người ham sự nghiệp [2]. Có lần ông đi tới kinh đô Trường An mong kiếm được một chức quan, nhưng rồi thất vọng trở về, tỏ ra bất đắc chí. Năm đầu Thiên Bảo (742), khi ấy ông đã 40 tuổi, vậy mà vẫn sống một cuộc đời áo vải rày đây mai đó [3].
Sau nhờ Trương Cửu Cao tiến cử, Cao Thích thi đỗ Hữu đạo khoa, được bổ làm Huyện úy Phong Khâu. Sống vất vưởng nửa đời người mới được làm quan, ông rất phấn khởi, nhưng ít lâu sau ông xin thôi chức, vì (dịch):
Rời Phong Khâu, Cao Thích đến Hà Tây làm Ký thất tham quân dưới quyền của Tiết độ sứ Hà Tây là Ca Thư Hàn.
Cuối năm 755, tướng An Lộc Sơn khởi binh làm phản. Sau đó, Ca Thư Hàn bại trận ở Đồng Quan, khiến vua Đường Huyền Tông phải rời khỏi Trường An. Nhờ chạy theo đường tắt, Cao Thích gặp được nhà vua tại Hà Trì. Sau khi giải trình lý do đại bại ở Đồng Quan, ông được bổ nhiệm làm Thị ngự sử, sau thăng làm Gián nghị đại phu, tỏ ra có khí tiết, dám nói thẳng. Bị Lý Phục Quốc ghen ghét, đổi ông làm Thứ sử tại hai châu Thục, Bành; rồi làm Tiết độ sứ Tây Xuyên (ra biên tái lần 2).
Đến đời Đường Túc Tông (ở ngôi: 756-762), nhờ có công vây đánh Vĩnh vương Lý Lân, Cao Thích được thăng làm Hình bộ Thị Lang; sau đổi làm Tán kỵ thường thị, tước Bột Hải huyện hầu.
Năm 765 đời Đường Đại Tông (ở ngôi: 762-779), Cao Thích mất, thọ 63 tuổi.
Khi tuổi đã cao, Cao Thích mới học làm thơ [4], và đã để lại Cao Đường thị tập (Tập thơ văn của Cao Thường thị), gồm 20 quyển.
Sinh thời, ông kết bạn thơ với Đỗ Phủ, Lý Bạch, Vương Xương Linh, Vương Chi Hoán,... Song có lẽ thân thiết nhất là Đỗ Phủ, vì xem bài "Phụng giản Cao tam thập ngũ sứ quân" của Đỗ Phủ gửi cho ông, đã cho thấy điều ấy [5].
Cao Thích đã hai lần xuất tái, nên ông hiểu tương đối sâu sắc cuộc sống ngoài biên ải. Thơ biên tái của ông thường thể hiện ý chí tha thiết bảo vệ bờ cõi, xây dựng sự nghiệp, cùng thái độ xem khinh những cái tầm thường, và lòng khao khát tự do...Tất cả đã mang lại cho thơ biên tái của ông một tình điệu sôi nổi, một tinh thần phóng túng, khí khái và hào hùng; mà "Yên ca hành" (Bài hành về lời ca ở đất Yên) và "Tái hạ khúc" (Khúc ca biên tái) là hai bài thơ tiêu biểu.
Bên cạnh đó, thơ văn ông còn thể hiện đời sống vất vả của người lao động, có những bài đã vạch trần được những bất công đương thời, như bài "Tự Kỳ thiệp Hoàng Hà đồ trung tác" (Làm trên đường từ đất Kỳ qua sông Hoàng Hà), "Đông Bình lộ trung ngộ đại thủy" (Gặp lụt trên đường đi Đông Bình),...Ngoài ra, ông còn làm thơ cảm hoài, vịnh sử, tặng tiễn bạn bè...Qua đó, ông gửi gắm lý tưởng, hoặc nỗi niềm riêng...[6].
Ở một số sách văn học sử Trung Quốc, Cao Thích thường được xếp cạnh Sầm Than (715-770), vì cả hai đều nổi danh về thơ biên tái. Song so lại, thơ biên tái của Cao Thích kém phong phú và ít vẻ hơn thơ biên tái của Sầm Than, rất có thể vì Sầm Than sống ở biên ải lâu hơn. Nói về điều này, sách Lịch sử văn học Trung Quốc có đoạn viết:
Yên Ca hành [8] là bài thơ biên tái tiêu biểu, và rất được truyền tụng của Cao Thích. Theo PGS. TS. Trần Lê Bảo, thì bài thơ đặc sắc ở chỗ không chỉ tả tình cảnh chiến dịch ở một nơi, trong một lúc; mà còn miêu tả các mặt cuộc sống chiến chinh, lúc khẳng khái ứng chiến, lúc chiến đấu tuyệt vọng, cảnh người lính mãi không được về, cảnh hai nơi thương nhớ…Lời thơ, khi hùng hồn cao vút, khi ai oán triền miên, tình cảm phức tạp, mâu thuẫn, rất thê lương bi tráng; đã đem lại cho người đọc mối cảm thương sâu sắc. Vần điệu cũng thay đổi theo nội dung bài thơ. Âm điệu du dương, cảnh trí được khắc họa giàu ý thơ làm cho toàn bài hài hòa nhất quán [9].
Lokasi Pengunjung: 52.14.184.10