Bột Hải Nghị Tông (trị vì 809 – 812) là vị quốc vương thứ 7 của vương quốc Bột Hải. Ông là đại vương tử của Bột Hải Khang Vương Đại Tung Lân. Ông có tên thật là Đại Nguyên Du (대원유, 大元瑜, Dae Won-yu).
Ngày 25 tháng 5 năm Bảo Lịch thứ 4 (năm 777), Nhị công chúa của Bột Hải Văn Vương là Trinh Huệ công chúa (cô của Đại Nguyên Du) qua đời, hưởng thọ 40 tuổi. Theo bia mộ và văn bia, Trinh Huệ công chúa đã kết hôn và có ít nhất một người con trai, nhưng cả chồng và con trai đều chết trước cô. Trong thời gian để tang cô, Bột Hải Văn Vương được cho là rất đau buồn và không đi ra khỏi phòng dù là có công việc triều chính.
Trong năm Đại Hưng thứ 46 (năm 793), Bột Hải Văn Vương (ông nội của Đại Nguyên Du) qua đời khi việc dời đô chưa hoàn thành, hưởng thọ hơn 70 tuổi. Em trai ông ta là Đại Nguyên Nghĩa (ông chú của Đại Nguyên Du, khi đó đã hơn 60 tuổi) lên kế vị. Niên hiệu Đại Hưng của Bột Hải Văn Vương vẫn được Đại Nguyên Nghĩa sử dụng.
Tuy nhiên, khi bước lên ngai vàng, nhà vua Đại Nguyên Nghĩa (Dae Won-ui) đã bộc lộ là một kẻ đố kỵ và tâm tính hung dữ, tàn bạo hiếu sát. Những đại thần có tài trong triều đình Bột Hải đều bị vua Đại Nguyên Nghĩa (Dae Won-ui) đố kỵ. Đại Nguyên Nghĩa tiến hành vu oan cho bọn họ tội mưu phản và giết hại các đại thần đó. Ông ta còn tàn sát hết gia quyến của những đại thần đó.
Bột Hải Khang Vương (Đại Tung Lân) lên ngôi vào năm 795, chọn niên hiệu là Chính Lịch (正曆, Jeongnyeok, nghĩa là "Chính sách ngay thẳng") - niên hiệu thay thế cho niên hiệu Trung Hưng của vua Bột Hải Thành Vương vừa băng hà.
Năm Chính Lịch thứ 15 (năm 809), Bột Hải Khang Vương qua đời, thọ hơn 60 tuổi.[9] Con trưởng của Bột Hải Khang Vương là Đại Nguyên Du (대원유, 大元瑜, Dae Won-yu) lên kế vị, tức là vua Bột Hải Định Vương.
Trị vì
Lịch sử biết ít về thời gian trị vì của Bột Hải Định Vương (Đại Nguyên Du). Bột Hải Định Vương chọn niên hiệu là Vĩnh Đức (永德, Yeongdeok, nghĩa là "Đức hạnh vĩnh cửu") vào năm 809 - niên hiệu thay thế cho niên hiệu Chính Lịch của vua Bột Hải Khang Vương vừa băng hà.
Từ năm Vĩnh Đức nguyên niên (năm 809) đến năm Vĩnh Đức thứ ba (năm 811), Bột Hải Định Vương phái con trưởng là Đại Diên Chân cùng chú họ là Đại Nhân Tú đi sứ sang nhà Đường (đời vua Đường Hiến Tông) triều cống 3 lần vào các năm 809, 810 và 811.[8]
Một nguồn thông tin quan trọng về văn hóa Bột Hải đã được tìm ra vào cuối thế kỷ XX tại Quần thể lăng mộ cổ ở núi Long Đầu. Trong đó lăng mộ Tứ công chúa của Bột Hải Văn Vương là Trinh Hiếu công chúa được phát hiện vào tháng 10 năm 1980. Những gò đất xếp bằng đá chứng tỏ sự tồn tại của ngôi mộ theo phong cách Cao Câu Ly[10] nhưng trang phục chính thức lại thể hiện phong cách nhà Đường, ngôn ngữ trên văn bia là tiếng Hán cổ điển của nhà Đường,[11] ngụ ý rằng Bột Hải đã tích cực tiếp nhận văn hóa nhà Đường.[12] Ban đầu có 12 bức tranh tường mô tả con người trên các bức tường phía sau của lối đi bên trong và các bức tường phía bắc, đông và tây của phòng chôn cất. Căn phòng được bao quanh bởi bốn bức tranh tường trên mỗi bức tường, mô tả mười ba người đang hành động, chẳng hạn như chiến binh, người hầu phòng, nhạc sĩ và người hầu gái, mặc áo choàng màu đỏ, xanh lam, vàng, tím và nâu. Những bức tranh tường lần đầu tiên thể hiện hình ảnh của người Bột Hải một cách hoàn chỉnh. Hầm chôn cất chứa một văn bia bằng đá granit hoàn chỉnh và nguyên vẹn, cao 1,05 mét, rộng 0,58 mét x 0,26 mét, hình thổ khuê (土圭), trên đó có 728 ký tự Trung Quốc của nhà Đường, theo kiểu chữ viết thông thường, được ghi trong 18 dòng ngang. Văn bia thuộc loại văn tự kết hợp điển hình, vừa có văn tự biên niên sử về cả cuộc đời của Trinh Hiếu công chúa vừa có văn bi ký thể hiện sự ca ngợi và tưởng nhớ Trinh Hiếu công chúa. Học giả Bột Hải, tác giả của văn bia này, là người có học thức cao trong văn học truyền thống Trung Quốc, thể hiện qua việc sử dụng các dòng thơ được mô phỏng theo các nhà thơ đầu triều đại nhà Đường. Văn bia của Trinh Hiếu công chúa (757 - 792) ghi rằng cha của cô (Bột Hải Văn Vương) vừa là một "vị vua vĩ đại",[13] vừa còn là một hoàng đế tương đương với hoàng đếnhà Đường.[14] Cô ấy có thể là một người thích cưỡi ngựa, vì phần còn lại của một con ngựa được tìm thấy trong lăng. Những bộ xương còn vương vãi khắp căn phòng khi được các nhà khảo cổ học phát hiện, do nạn cướp bóc trước đó. Tuy nhiên, những kẻ cướp bóc đã bỏ lỡ một số món đồ bằng vàng và đồng, đồ trang sức, đồ gốm và tượng nhỏ. Vật trang trí trong lăng bằng vàng mô tả con chim ba chân là một bằng chứng chứng minh vương quốc Bột Hải là quốc gia kế thừa của Cao Câu Ly.[15]
Năm Vĩnh Đức thứ 4 (năm 812), Bột Hải Định Vương qua đời, thọ gần 50 tuổi. Bột Hải Định Vương đã kết hôn và có một vương tử tên là Đại Diên Chân (Dae Yeon-jin). Tuy nhiên có lẽ Đại Diên Chân chưa trưởng thành nên em của Bột Hải Định Vương là Nhị hoàng tử Đại Ngôn Nghĩa lên kế vị, tức là vua Bột Hải Hi Vương.
^ ab"Từ cha của Đại Nhân Tú, đến Kiến Hưng vào năm sau, tổ tiên thứ tư của ông ấy là Đại Dã Bột và là em trai của Đại Tộ Vinh. Đại Nhân Tú đã tấn công các bộ lạc khác nhau ở Hải Bắc, mở ra một vương quốc vĩ đại và lập nên những thành tựu to lớn. Mười sáu lần triều cống vào năm Nguyên Hòa (niên hiệu của vua Đường Hiến Tông), bốn lần triều cống vào năm Trường Khánh (niên hiệu của vua Đường Mục Tông), hai lần triều cống vào năm Bảo Lịch (niên hiệu của vua Đường Kính Tông). Năm Thái Hòa thứ tư của vua Đường Văn Tông, Đại Nhân Tú qua đời, thụy hiệu là Tuyên Vương" Theo Tân Đường thư (新唐书)
^강왕 (bằng tiếng Hàn). 한국민족문화대백과/Nate. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2013.
^ abLee Injae, Owen Miller, Park Jinhoon, Yi Hyun-hae, 《Korean History in Maps》, Cambridge University Press, 2014. ISBN1107098467 p. 65