Đám rối mạch mạc sản xuất dịch não tủy (DNT). DNT như một hệ thống lọc, loại bỏ chất thải của quá trình trao đổi chất trong não và trao đổi các phân tử sinh học và xenobiotic ra-vào não.[3][4] Theo cách này, đám rối mạch mạc có vai trò rất quan trọng trong việc giúp duy trì môi trường ngoại bào, rất cần thiết cho não để hoạt động tối ưu.
Hàng rào máu–dịch não tủy (tiếng Anh: blood–cerebrospinal fluid barrier, viết tắt: BCSFB) là một hàng rào chất lỏng, gồm một màng kép ngăn cách máu với DNT ở mức mao mạch và DNT từ mô não.[7] Ranh giới máu–dịch não tủy ở đám rối mạch mạc là một màng gồm các tế bào biểu mô liên kết với nhau bằng dải bịt. Có hàng rào máu–DNT ở mức màng mềm (pia mater), nhưng chỉ tồn tại ở phôi.[8]
Tương tự như hàng rào máu não (tiếng Anh: blood-brain barrier, viết tắt: BBB), hàng rào máu–DNT có chức năng ngăn chặn hầu hết các chất truyền qua máu vào não, đồng thời cho phép chọn lọc các chất cụ thể đi vào não và tạo điều kiện loại bỏ các chất chuyển hóa trong não vào máu.[9] Mặc dù hàng rào máu não và hàng rào máu–DNT có chức năng tương tự nhau, mỗi hàng rào chọn lọc chất khác nhau vào não do đặc điểm cấu trúc riêng biệt giữa hai hệ hàng rào.[7] Đối với một số chất, hàng rào máu–DNT là vị trí chủ chốt để chất đó chui vào mô não.
Hàng rào máu–DNT được chứng minh là điều chỉnh sự xâm nhập của bạch cầu từ máu đến hệ thần kinh trung ương. Các tế bào đám rối mạch mạc tiết ra cytokine thu nhận các đại thực bào có nguồn gốc từ bạch cầu mono cùng nhiều tế bào khác vào não.[10]
Ý nghĩa lâm sàng
Nang đám rối mạch mạc
Trong quá trình phát triển trước khi sinh, một số thai nhi có thể hình thành nang đám rối mạch mạc. Phát hiện những nang chứa đầy chất lỏng này bằng siêu âm tam cá nguyệt thứ hai chi tiết. Phát hiện này tương đối phổ biến, được sử dụng với tỷ lệ ~ 1%. Nang đám rối mạch mạc thường là một phát hiện biệt lập.[11] Các nang thường biến mất sau khi mang thai, và thường thì vô hại. Chúng không gây tác hại đối với sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.[12]
Nang xuất hiện trên thai nhi có thể ám chỉ thai đó mang thể lệch bội với xác suất 1%.[13] Nguy cơ thể lệc bội sẽ tăng lên 10,5 đến 12% nếu xuất hiện thêm các yếu tố khác. Kích thước, vị trí, sự biến mất hoặc tiến triển, và liệu các nang được tìm thấy ở cả hai bên đám rối hay không, đều không ảnh hưởng đến tỷ lệ mang thể lệch bội. 44-50% trường hợp mắc hội chứng Edwards (trisomy 18) và 1,4% trường hợp hội chứng Down (trisomy 21) có nang đám rối mạch mạc. Khoảng 75% kiểu nhân đồ bất thường có liên quan đến nang đám rối mạch mạc là trisomy 18, khoảng 25% còn lại là trisomy 21.[11]
^Moos, T (tháng 11 năm 2002). “Brain iron homeostasis”. Danish Medical Bulletin. 49 (4): 279–301. PMID12553165.
^Moos, T; Rosengren Nielsen, T; Skjørringe, T; Morgan, EH (tháng 12 năm 2007). “Iron trafficking inside the brain”. Journal of Neurochemistry. 103 (5): 1730–40. doi:10.1111/j.1471-4159.2007.04976.x. PMID17953660.
^ abLaterra J, Keep R, Betz LA, và đồng nghiệp (1999). “Blood–cerebrospinal fluid barrier”. Basic Neurochemistry: Molecular, Cellular and Medical Aspects (ấn bản thứ 6). Philadelphia: Lippincott-Raven.
^Saunders, Norman R.; Habgood, Mark D.; Møllgård, Kjeld; Dziegielewska, Katarzyna M. (ngày 10 tháng 3 năm 2016). “The biological significance of brain barrier mechanisms: help or hindrance in drug delivery to the central nervous system?”. F1000Research. 5: 313. doi:10.12688/f1000research.7378.1. ISSN2046-1402. PMC4786902. PMID26998242. The embryonic CSF-brain barrier, shown in Figure 1(f). In the ventricular zone is a temporary barrier between the CSF and brain parenchyma. In early brain development, strap junctions are present between adjacent neuroepithelial cells; these form a physical barrier restricting the movement of larger molecules, such as proteins, but not smaller molecules. At later stages of development and in the adult brain, these strap junctions are no longer present when this interface becomes ependyma.
^Ueno M, Chiba Y, Murakami R, Matsumoto K, Kawauchi M, Fujihara R (tháng 4 năm 2016). “Blood-brain barrier and blood-cerebrospinal fluid barrier in normal and pathological conditions”. Brain Tumor Pathology. 33 (2): 89–96. doi:10.1007/s10014-016-0255-7. PMID26920424.
Brodbelt A, Stoodley M (tháng 10 năm 2007). “CSF pathways: a review”. British Journal of Neurosurgery. 21 (5): 510–20. doi:10.1080/02688690701447420. PMID17922324.