Ung thư biểu mô tuyến ống xâm lấn

Ung thư biểu mô tuyến ống xâm lấn
Invasive carcinoma of no special type
Tên khácUng thư xâm lấn ống caxinom
Những loại ung thư ngực mô bệnh học, với tỷ lệ gặp và tiên lượng tương đối, với "ung thư xâm lấn ống caxinom" phía dưới bên trái
Khoa/NgànhUng thư học, khoa da liễu, phẫu thuật ngực

Ung thư biểu mô tuyến ống xâm lấn hay ung thư biểu mô xâm lấn không có loại đặc biệt là một nhóm ung thư vú không có "tính năng phân biệt cụ thể". Những người có các tính năng này thuộc về các loại khác.[1]

Trong nhóm này là: ung thư biểu mô đa dạng, ung thư biểu mô với các tế bào khổng lồ dạng tế bào hủy xương, ung thư biểu mô với các tính năng ung thư nhau, và ung thư biểu mô với các tính năng nhiễm melani. Nó là một chẩn đoán loại trừ, có nghĩa là chẩn đoán được thực hiện tất cả các loại cụ thể khác phải được loại trừ.

Phân loại

Ung thư biểu mô xâm lấn không có loại đặc biệt (NST) là dạng ung thư vú xâm lấn phổ biến nhất. Chiếm 55% tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú khi chẩn đoán, theo số liệu thống kê từ Hoa Kỳ năm 2004.[2] Trên chụp nhũ ảnh, nó thường được hình dung như là một khối lượng với gai tốt tỏa ra từ các cạnh. Về khám sức khỏe, khối u này thường cảm thấy khó khăn hơn hoặc cứng rắn hơn các tổn thương vú lành tính như u xơ hóa. Khi kiểm tra bằng kính hiển vi, các tế bào ung thư xâm nhập và thay thế các mô bình thường xung quanh. IDC được chia thành một số loại phụ mô học.

Các dấu hiệu và triệu chứng

Trong nhiều trường hợp, ung thư biểu mô ống là không có triệu chứng, và phát hiện như là kết quả bất thường trên chụp nhũ ảnh. Khi các triệu chứng xuất hiện, một khối u to, không đau, không dao động trong thời kỳ kinh nguyệt có thể được cảm nhận.[3] :274–275 Véo của vùng da trên cũng có thể được nhìn thấy. Một số loại phụ, chẳng hạn như ung thư biểu mô viêm, có thể dẫn đến sưng, phình to và mềm. Tất cả các biến thể của ung thư, nếu có di căn, có thể gây ra các hạch bạch huyết mở rộng và ảnh hưởng đến các cơ quan khác.[4] :746–747

Nguyên nhân

Ung thư có thể hình thành từ tổn thương tiền ung thư được gọi là ung thư biểu mô ống tại chỗ.

Tham khảo

  1. ^ Sinn, HP; Kreipe, H (tháng 5 năm 2013). “A Brief Overview of the WHO Classification of Breast Tumors, 4th Edition, Focusing on Issues and Updates from the 3rd Edition”. Breast care (Basel, Switzerland). 8 (2): 149–154. doi:10.1159/000350774. PMC 3683948. PMID 24415964.
  2. ^ Percentage values are from United States statistics 2004. Subtype specific incidences are taken from Table 6 (invasive) and Table 3 (in situ) from Eheman CR, Shaw KM, Ryerson AB, Miller JW, Ajani UA, White MC (tháng 6 năm 2009). “The changing incidence of in situ and invasive ductal and lobular breast carcinomas: United States, 1999-2004”. Cancer Epidemiol. Biomarkers Prev. 18 (6): 1763–9. doi:10.1158/1055-9965.EPI-08-1082. PMID 19454615.. These are divided by total breast cancer incidence (211,300 invasive and 55,700 in situ cases) as reported from Breast Cancer Facts & Figures 2003-2004 “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2010.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  3. ^ Nicki R. Colledge; Brian R. Walker; Stuart H. Ralston biên tập (2010). Davidson's principles and practice of medicine. Illustrated by Robert Britton (ấn bản thứ 21). Edinburgh: Churchill Livingstone/Elsevier. ISBN 978-0-7020-3084-0.
  4. ^ Robbins basic pathology. Saunders/Elsevier. 2007. ISBN 978-0-8089-2366-4.