Những chiếc thuộc lớp tàu khu trục Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ dieselGeneral Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 mi; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[4]
Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[4]
Whitman được đặt lườn như là chiếc BDE-24 tại Xưởng hải quân Mare Island, ở Vallejo, California vào ngày 7 tháng 9 năm 1942. Tuy nhiên Hải quân Hoa Kỳ quyết định giữ lại con tàu, xếp lại lớp thành DE-24 vào ngày 7 tháng 1 năm 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 19 tháng 1 năm 1943; được đỡ đầu bởi bà Josephine P. Whitman, vợ góa Trung úy Whitman, và nhập biên chế vào ngày 3 tháng 7 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Carl E. Bull.[3]
Đi ngang qua Funafuti thuộc quần đảo Ellice để quay trở lại Hawaii trong tháng 1, 1944, Whitman được sửa chữa động cơ tại Xưởng hải quân Trân Châu Cảng trước khi lên đường tham gia chiến dịch quần đảo Marshall. Nó hộ tống cho Đơn vị Đặc nhiệm 53.8.3, bao gồm các tàu chở dầu đi đến Majuro bốn ngày sau khi diễn ra cuộc tấn công đổ bộ. Sau đó nó tiếp tục hộ tống cho nhiều đoàn tàu vận tải đi lại giữa các khu vực Hawaii và Marshall, rồi đi đến vùng bờ Tây vào tháng 3 để được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island. Nó quay trở lại Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 5.[3]
Rời khu vực quần đảo Hawaii vào ngày 27 tháng 5 để hướng sang khu vực tác chiến, Whitman hộ tống cho Đơn vị Đặc nhiệm 16.6.4, một đội tàu chở dầu phục vụ cho các đội đặc nhiệm đang tác chiến tại khu vực quần đảo Mariana trong tháng 6. Nó sau đó phục vụ hộ tống vận tải tại chỗ tại khu vực Marshall, rồi quay trở lại Trân Châu Cảng vào mùa Thu để phục vụ huấn luyện cho tàu ngầm thuộc Hạm đội Thái Bình Dương.[3]
1945
Whitman đóng vai trò mục tiêu giả lập cho tàu ngầm thực hành tại khu vực phụ cận Oahu từ tháng 10, 1944 đến tháng 5, 1945. Ngoài ra con tàu còn tham nhiều nhiệm vụ khác, bao gồm tuần tra chống tàu ngầm và hoạt động canh phòng máy bay cho các tàu sân bay. Khi phục vụ cho tàu sân bay hộ tốngFanshaw Bay (CVE-70) vào ngày 23 tháng 2, nó đã giúp cứu vớt Trung úy Hải quân Ward J. Taylor sau khi máy bay của anh buộc phải hạ cánh trên biển. Sang tháng 6, con tàu được điều sang Đội đặc nhiệm 96.3 để hoạt động tuần tra tại các khu vực Eniwetok, Johnston, Kwajalein và Ulithi trong suốt mùa Hè.[3]
Khởi hành từ Eniwetok vào ngày 10 tháng 8, Whitman hộ tống cho Đoàn tàu EU-172 hướng sang Ulithi, và con tàu đang hộ tống cho Đoàn tàu UE-123 quay trở lại Eniwetok khi nó nhận được tin tức Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng. Khi văn kiện đầu hàng được ký kết trên thiết giáp hạmMissouri (BB-63) tại vịnh Tokyo, Whitman đang có mặt tại Eniwetok.[3]
^″WHITMAN, Robert Scott, Jr., Lieutenant (jg), USN. Wife, Mrs. Josephine Porter Whitman,...″ (WWII Navy, Marine Corps, and Coast Guard Casualty List, State Summary of War Casualties, CALIFORNIA, p. 95) [1]