Share to: share facebook share twitter share wa share telegram print page

USS Hull (DD-350)

Tàu khu trục USS Hull (DD-350)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Hull (DD-350)
Đặt tên theo Isaac Hull
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân New York
Đặt lườn 7 tháng 3 năm 1933
Hạ thủy 31 tháng 1 năm 1934
Người đỡ đầu cô Patricia Louise Platt
Nhập biên chế 11 tháng 1 năm 1935
Danh hiệu và phong tặng 10 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Bị đắm trong một cơn bão, 18 tháng 12 năm 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Farragut
Trọng tải choán nước 1.365 tấn Anh (1.387 t) (tiêu chuẩn)
Chiều dài 341 ft 3 in (104,01 m)
Sườn ngang 34 ft 3 in (10,44 m)
Mớn nước 16 ft 2 in (4,93 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Curtis
  • 4 × nồi hơi ống nước
  • 2 × trục
  • công suất 42.800 hp (31.900 kW)
Tốc độ 37 hải lý trên giờ (69 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 160 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Hull (DD-350) là một tàu khu trục lớp Farragut được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Thiếu tướng Hải quân Isaac Hull (1773-1843), người tham gia cuộc Chiến tranh 1812. Hull đã có mặt tại Trân Châu Cảng vào lúc diễn ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng châm ngòi chiến tranh tại Thái Bình Dương, và đã phục vụ cho đến khi bị đắm trong một cơn bão tại Philippines vào năm 1944. Nó được tặng thưởng 10 Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong chiến tranh.

Thiết kế và chế tạo

Hull được đặt lườn vào ngày 7 tháng 3 năm 1933 tại Xưởng hải quân New York. Nó được hạ thủy vào ngày 31 tháng 1 năm 1934, được đỡ đầu bởi cô Patricia Louise Platt; và được đưa ra hoạt động vào ngày 11 tháng 1 năm 1935 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân R. S. Wentworth.

Lịch sử hoạt động

Trước chiến tranh

Sau chuyến đi chạy thử máy đưa nó đến vùng quần đảo Azores, Bồ Đào Nhaquần đảo Anh, Hull lên đường đi San Diego, California, ngang qua kênh đào Panama, đến nơi vào ngày 19 tháng 10 năm 1935. Nó bắt đầu hoạt động cùng Hạm đội Thái Bình Dương ngoài khơi San Diego, tham gia các cuộc thực tập chiến thuật và huấn luyện. Trong mùa Hè năm 1936 nó đi đến Alaska, và vào tháng 4 năm 1937 đã tham gia tập trận hạm đội tại vùng biển Hawaii. Trong một giai đoạn mà sự căng thẳng quốc tế ngày càng gia tăng trước chiến tranh, nó thường xuyên hoạt động như tàu canh phòng máy bay cho các tàu sân bay hải quân tại Thái Bình Dương. Nó tiếp tục các hoạt động này cho đến khi chiến tranh nổ ra, đã chuyển đến cảng nhà mới ở Trân Châu Cảng vào ngày 12 tháng 10 năm 1939.

Thế Chiến II

Nhịp điệu hoạt động tuần tra, huấn luyện và tập trận thường lệ bị chấm dứt vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, khi Hải quân Đế quốc Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng. Hull đang neo đậu cặp theo chiếc tàu tiếp liệu khu trục Dobbin để sửa chữa, và đã đưa dàn hỏa lực phòng không vào hoạt động. Do mục tiêu chính của cuộc tấn công là các thiết giáp hạm trong khi các tàu sân bay vắng mặt, chiếc tàu khu trục không bị đánh trúng, và vào ngày hôm sau đã gặp gỡ tàu sân bay USS Enterprise (CV-6) để hộ tống nó đi vào Trân Châu Cảng. Trong những tháng tiếp theo, nó hoạt động cùng Lực lượng Đặc nhiệm 11 dưới quyền Đô đốc Wilson Brown, hộ tống cho tàu sân bay USS Lexington (CV-2) trong những cuộc tấn công cần thiết xuống các căn cứ của quân Nhật tại quần đảo Solomon. Nó quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 26 tháng 3, và trong ba tháng tiếp theo làm nhiệm vụ hộ tống vận tải đi lại giữa San Francisco, California và Trân Châu Cảng.

Hull lên đường đi Suyu thuộc quần đảo Fiji vào ngày 7 tháng 6 nhằm chuẩn bị cho việc chiếm đóng Guadalcanal. Nó khởi hành đi Solomon vào ngày 26 tháng 7, và vào chính ngày đổ bộ 7 tháng 8 năm 1942 đã hộ tống cho các tàu tuần dương trong quá trình bắn phá bờ biển, rồi chiếm lấy vị trí bảo vệ chống tàu ngầm cho các tàu đổ bộ. Ngày hôm sau, nó giúp đánh trả các cuộc ném bom, bắn rơi nhiều máy bay đối phương. Chiều tối hôm đó, Hull buộc phải đánh đắm chiếc tàu vận chuyển George F. Elliott khi chiếc này bốc cháy không thể kiểm soát. Vào ngày 9 tháng 8, nó đánh chìm một tàu buồm nhỏ ngoài khơi Guadalcanal, rồi khởi hành vào chiều tối hôm đó để đi Espiritu Santo. Trong những tuần lễ khó khăn tiếp theo tại Guadalcanal, nó thực hiện ba chuyến đi cùng các tàu vận tải và tàu chiến khác để hỗ trợ binh lính đồn trú, bị đối phương không kích hai lần vào các ngày 914 tháng 9.

Hull quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 20 tháng 10, và trải qua thời gian còn lại của năm cùng thiết giáp hạm USS Colorado (BB-45) tại New Hebrides. Nó khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 29 tháng 1 năm 1943 để sửa chữa, đi đến San Francisco vào ngày 7 tháng 2; và sau khi hoàn tất nó lên đường đi quần đảo Aleut, đi đến Adak, Alaska vào ngày 16 tháng 4 để bắt đầu một loạt các cuộc cơ động huấn luyện cùng thiết giáp hạm và tàu tuần dương tại vùng biển phía Bắc. Khi hải quân bắt đầu các hoạt động nhằm tái chiếm Attu vào tháng 5, chiếc tàu khu trục làm nhiệm vụ tuần tra, và trong tháng 7 và đầu tháng 8 đã tham gia nhiều hoạt động bắn phá đảo Kiska. Con tàu cũng tham gia cuộc đổ bộ lên Kiska vào ngày 15 tháng 8, chỉ để phát hiện quân Nhật đã bí mật triệt thoái khỏi đảo này.

Hull quay trở lại khu vực trung tâm Thái Bình Dương, về đến Trân Châu Cảng vào ngày 26 tháng 9 năm 1943, rồi khởi hành cùng hạm đội ba ngày sau đó để tấn công đảo Wake, và hoạt động cùng các tàu sân bay hộ tống trong các đòn tấn công nghi binh phân tán sự chú ý của quân Nhật khỏi mục tiêu chính là quần đảo Gilbert. Chiếc tàu khu trục đã bắn phá Makin trong cuộc tấn công vào ngày 20 tháng 11, và khi chiến dịch diễn tiến thuận lợi, nó cùng một đoàn tàu vận tải quay về Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12. Từ đây nó quay về vùng bờ Tây, đi đến Oakland, California vào ngày 21 tháng 12 để thực hành đổ bộ. Nó khởi hành cùng Lực lượng Đặc nhiệm 53 từ San Diego vào ngày 13 tháng 1 năm 1944 cho mục tiêu tiếp theo tại quần đảo Marshall, đi đến ngoài khơi Kwajalein vào ngày 31 tháng 1. Nó bảo vệ các tàu vận chuyển tại khu vực dự bị, và cho đến tháng 2 đã làm nhiệm vụ tuần tra và hộ tống ngoài khơi EniwetokMajuro. Gia nhập cùng một lực lượng thiết giáp hạm và tàu sân bay, nó đi đến đảo san hô Mille vào ngày 18 tháng 3 tham gia một cuộc bắn phá, rồi tiếp tục bắn phá Wotje vào ngày 22 tháng 3.

Hull sau đó tham gia cuộc bắn phá Truk từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 4, rồi sau đó đi đến Majuro vào ngày 4 tháng 5. Tại đây nó gia nhập cùng các thiết giáp hạm của Đô đốc Lee cho chiến dịch tấn công tiếp theo xuống quần đảo Mariana. Chiếc tàu khu trục bắn phá Saipan vào ngày 13 tháng 6, hỗ trợ các hoạt động quát mìn bằng hải pháo, và tuần tra cho đến khi diễn ra cuộc đổ bộ ban đầu vào ngày 15 tháng 6. Hai ngày sau, Hull cùng các tàu chiến khác lên đường để gia nhập lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay của Đô đốc Marc Mitscher. Hai hạm đội đối nghịch đã tiếp cận nhau vào ngày 19 tháng 6 cho cuộc đối đầu tàu sân bay lớn nhất trong chiến tranh, khi diễn ra bốn đợt không kích lớn của máy bay Nhật nhắm vào hạm đội Hoa Kỳ. Dưới sự hỗ trợ của các tàu ngầm Hoa Kỳ, Mitscher thành công trong việc đánh chìm hai tàu sân bay hạm đội đối phương cũng như gây thiệt hại lớn cho lực lượng không quân tàu sân bay đối phương trong Trận chiến biển Philippine, vốn còn mang biệt danh "Cuộc săn vịt trời Mariana vĩ đại", có phần đóng góp của Hull trong đó.

Trong tháng 7, Hull hoạt động cùng các đội tàu sân bay ngoài khơi Guam, và sau cuộc đổ bộ vào ngày 21 tháng 7, nó tuần tra ngoài khơi hòn đảo. Đến tháng 8, nó quay trở về Seattle, Washington, đến nơi vào ngày 25 tháng 8, và được sửa chữa tại đây cho đến ngày 23 tháng 10, khi nó thả neo tại Trân Châu Cảng. Chiếc tàu khu trục gia nhập một đội tiếp nhiên liệu của Đệ Tam hạm đội, khởi hành vào ngày 20 tháng 11 năm 1944 để gặp gỡ lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay nhanh trong vùng biển Philippine.

Hoạt động tiếp nhiên liệu cho các tàu sân bay được bắt đầu từ ngày 17 tháng 12, nhưng hoàn cảnh biển động mạnh buộc phải hủy bỏ hoạt động vào cuối ngày hôm đó. Đội tiếp nhiên liệu bị mắc kẹt vào trong cơn bão Cobra vào ngày hôm sau khi các khí áp kế hạ rất thấp và gió đạt vận tốc 90 hải lý trên giờ (170 km/h). Sau khi Hull được lệnh chuyển sang hướng 140°, vận tốc gió tăng lên trên 100 hải lý trên giờ (190 km/h). Đến khoảng 11 giờ 00 ngày 18 tháng 12, chiếc tàu khu trục mắc kẹt giữa "bức tường sắt", những cơn sóng cao như núi. Không có khả năng bẻ lái với gió từ phía Bắc bên mạn trái, chòng chành giữa 80 và 100 độ, những chiếc xuồng và mìn sâu của nó bị cuốn xuống biển. Khi độ nghiêng tăng lên 70 độ, nó bị gió biển ghìm xuống nước trong khi nước tràn vào buồng lái và đổ xuống qua các ống khói.

Mọi người luống cuống làm việc để giữ cho con tàu nguyên vẹn và nổi được trong khi bị lật nghiêng nặng, nhưng cuối cùng, theo lời Hạm trưởng: "Con tàu nghiêng đến hay hơn nữa; nước tràn vào cấu trúc thượng tầng. Tôi cố bám vào mạn trái của cầu tàu cho đến khi nước tràn qua người tôi, và tôi rơi xuống nước khi con tàu lật úp." Một phát hiện sau này cho thấy một thùng dằn chứa nước biển có thể giúp con tàu phục hồi lại từ độ lật nghiêng 70°.[1]

Các hoạt động cứu hộ do tàu khu trục USS Tabberer (DE-418) và các tàu khác tiến hành những ngày tiếp theo đã cứu giúp tính mạng của 7 sĩ quan và 55 thủy thủ.[2] Được báo cáo sau đó, vào một lúc trước khi con tàu bị khóa trong những "bức tường sắt", các sĩ quan đã tranh luận với có nên loại bỏ Hạm trưởng để có thể xoay con tàu sang một hướng an toàn hơn, nhưng Sĩ quan Cao cấp (Hạm phó) đã từ chối làm như vậy vì chưa bao giờ có việc binh biến trên một tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ. Sự kiện này đã đem lại ý tưởng cho tiểu thuyết gia Herman Wouk trong cao trào của cuốn truyện The Caine Mutiny, theo đó hạm trưởng bị cách chức bởi các sĩ quan của ông trong quá trình cơn bão Cobra. Vị Sĩ quan Cao cấp, người tử nạn cùng con tàu, là cha của nhà báo nhạc Rock Greil Marcus.[3]

Phần thưởng

Hull được tặng thưởng mười Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Tham khảo

  1. ^ Typhoon Cobra
  2. ^ Drury, Bob; Clavin, Tom (2007). Halsey's Typhoon: The True Story of a Fighting Admiral, an Epic Storm, and an Untold Rescue. Grove Press. ISBN 978-0802143372.
  3. ^ The Guardian, ngày 18 tháng 2 năm 2012 (phỏng vấn cùng Greil Marcus).

Liên kết ngoài


This information is adapted from Wikipedia which is publicly available.

Read other articles:

Interior (tondo) pada sebuah Kylix berfigur merah, menggambarkan Herakles dan Athena, buatan perajin Phoinix dan seniman Douris, (480-470 SM) Antikensammlungen Munich. Seni Yunani dimulai pada peradaban prasejarah Kiklad dan Minoa. Seni Yunani Kuno merupakan cikal bakal Seni klasik Barat pada periode kuno, dan lebih mengembangkannya lagi pada periode Hellenis. Seni Yunani dipengaruhi oleh peradaban Timur dan agama Kristen Ortodoks pada era Bizantium dan menyerap gagasan-gagasan Italia dan Eropa …

Louise Fletcher Louise Fletcher (22 Juli 1934 – 23 September 2022) merupakan seorang aktris Amerika Serikat. Dia menjadi terkenal saat bermain di film utamanya seperti Thieves Like Us pada tahun 1974. Dilahirkan di Birmingham, Alabama. Berkarier di dunia film sejak tahun 1958. Filmografi List of acting credits in film and television Tahun Judul Sebagai Catatan 1963 A Gathering of Eagles Mrs. Kemler uncredited 1974 Thieves Like Us Mattie 1975 One Flew Over the Cuckoo's Nest Nurse …

Bengkulu pada Pekan Olahraga Nasional 2021 Jumlah atlet 46 di 15 cabang olahraga Pembawa bendera TBD Total medali Emas1 Perak1 Perunggu1 3 (Urutan ke- ) Bengkulu akan berkompetisi pada Pekan Olahraga Nasional 2021 di Jayapura, Papua. Sebenarnya kontingen ini dijadwalkan untuk bertanding pada 20 Oktober sampai 2 November 2020 namun ditunda ke tanggal 2 sampai 15 Oktober 2021 karena Pandemi COVID-19.[1] Medali Artikel utama: Pekan Olahraga Nasional 2021 Medali Atlet Cabang olahraga No…

This article is about the fort in Marblehead, Massachusetts. For the fort in California, see Fort Miller, California. Fort Miller/Fort DarbyNaugus Head, Marblehead, Massachusetts Fort Miller/Fort DarbyLocation in MassachusettsCoordinates42°31′12″N 70°51′43″W / 42.52000°N 70.86194°W / 42.52000; -70.86194TypeCoastal DefenseSite informationOwnerprivateControlled byTown of MarbleheadSite historyBuiltcirca 1629-1632In usecirca 1632-1900Demolishedcirca 190…

Pacal II yang AgungAjaw PalenqueIlustrasi Pacal yang AgungBerkuasa29 Juli 615 – 31 Agustus 683PendahuluSak K'uk'PenerusK'inich Kan B'alam IIPemakamanPalenqueNama lengkapK'inich Janaab' PakalAyahK'an Mo' HixIbuSak K'uk'AnakK'inich Kan B'alam IIK'inich K'an Joy Chitam II Pacal II, juga disebut Pacal yang Agung (karya terkini menyebutkan nama lengkapnya K'inich Janaab' Pakal[1] (26 Maret 603 - 31 Agustus 683), adalah penguasa pemerintahan Maya di Palenque. Pacal naik takhta pada usia 12 tahun pad…

Este artigo não cita fontes confiáveis. Ajude a inserir referências. Conteúdo não verificável pode ser removido.—Encontre fontes: ABW  • CAPES  • Google (N • L • A) (Julho de 2020) Dan Swartz é um ex-jogador de basquete norte-americano que foi campeão da Temporada da NBA de 1962-63 jogando pelo Boston Celtics. Este artigo sobre basquetebol é um esboço. Você pode ajudar a Wikipédia expandindo-o.vde Portal do basquetebol P…

Кішки Країна  Росія Суб'єкт Російської Федерації Код ЗКАТУ: 36224832001 Код ЗКТМО: 36624432101 Основні дані Час заснування 1730 Поштовий індекс 446800 Телефонний код +7 84650 Географічні координати: 54°12′00″ пн. ш. 50°28′12″ сх. д. / 54.2000000000277779577118054° пн. ш. 50.47000000002777398°&…

يفتقر محتوى هذه المقالة إلى الاستشهاد بمصادر. فضلاً، ساهم في تطوير هذه المقالة من خلال إضافة مصادر موثوق بها. أي معلومات غير موثقة يمكن التشكيك بها وإزالتها. (يونيو 2020) هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (ن…

Bảo tàng lịch sử tự nhiênNaturhistorisches MuseumThành lậpgiữa năm 1872 và 1889Vị tríWien, ÁoGiám đốcKatrin VohlandTrang webnhm-wien.ac.at/en Bảo tàng lịch sử tự nhiên Wien (tiếng Đức: Naturhistorisches Museum Wien) là một bảo tàng lịch sử tự nhiên lớn nằm ở Wien, Áo.[1][2] Đây là một trong những bảo tàng lịch sử tự nhiên quan trọng nhất trên toàn thế giới. Bảo tàng lịch sử tự nhiên W…

Copa Alberto Spencer Copa Alberto Spencer 2019Datos generalesDeporte fútbolSede Ecuador EcuadorContinente SudaméricaNombre comercial Copa Pepsi Alberto SpencerOrganizador Liga Pro, GolTVEquipos participantes 4Datos históricosFundación 2019 (4 años)Primer campeón BarcelonaDatos estadísticosCampeón actual BarcelonaSubcampeón actual LDUMás campeonatos Barcelona (1)Otros datosSocio de TV GolTV[editar datos en Wikidata] La Copa Alberto Spencer fue un torneo nacional de f…

Недобоївська сільська громада Герб громади Прапор громадиОсновні даніКраїна  УкраїнаОбласть Чернівецька областьРайон Дністровський районКод КАТОТТГ UA73040110000040354Утворена 14 серпня 2015 рокуАдмін. центр НедобоївціТериторія та населенняПлоща 79,51 км²Населення 7006 осіб (2018)Г…

Mawar Bunga mawar penuh dengan tetes hujan     Koordinat warnaTriplet hex#FF007FsRGBB    (r, g, b)(255, 0, 127)CMYKH   (c, m, y, k)(0, 100, 50, 0)HSV       (h, s, v)(330°, 100%, 100%)SumberPerBang.dkB: Dinormalkan ke [0–255] (bita)H: Dinormalkan ke [0–100] (ratusan) Mawar adalah jenis warna antara patma dan merah. Warna mawar adalah representasi dari warna bunga mawar. Pita warna mawar Lihat pula Daftar warna Merah mawar Artikel bertopik warn…

Наслідки дії уламкового боєприпасу (в даному випадку — суб-боєприпас з касетної авіабомби) Уламковий снаря́д[1][2] — артилерійський снаряд основного призначення, при вибуху якого ціль уражається уламками корпусу і частково продуктами вибуху і ударною хвилею…

Distribusi Ras di Austria-Hungaria, menunjukkan wilayah yang dihuni oleh orang-orang Slavia (dari Historical Atlas karya William R. Shepherd, 1911) Austro-Slavisme adalah gagasan politik yang dimaksudkan untuk menyelesaikan permasalahan orang-orang Slavia di Kekaisaran Austria. Gagasan ini dianut oleh kaum liberal Ceko pada pertengahan abad ke-19. Konsep Austro-Slavisme pertama kali dicetuskan oleh Karel Havlíček Borovský pada tahun 1846 dan kemudian dikembangkan menjadi program politik oleh …

For other uses, see Copper (disambiguation). Chemical element, symbol Cu and atomic number 29Copper, 29CuCopperAppearanceRed-orange metallic lusterStandard atomic weight Ar°(Cu)63.546±0.00363.546±0.003 (abridged)[1] Copper in the periodic table Hydrogen Helium Lithium Beryllium Boron Carbon Nitrogen Oxygen Fluorine Neon Sodium Magnesium Aluminium Silicon Phosphorus Sulfur Chlorine Argon Potassium Calcium Scandium Titanium Vanadium Chromium Manganese Iron Cobalt Nickel Co…

Domenico Di Carlo Informasi pribadiTanggal lahir 23 Maret 1964 (umur 59)Tempat lahir Cassino, ItaliaPosisi bermain GelandangInformasi klubKlub saat ini -Karier senior*Tahun Tim Tampil (Gol)1979–1981 Real Cassino 37 (1)1981–1982 Treviso 26 (1)1982–1984 Como 0 (0)1984–1986 Treviso 55 (3)1986–1987 Ternana 30 (3)1987–1990 Palermo 97 (6)1990–1999 Vicenza 266 (9)1999–2000 Lecce 4 (0)2000–2001 Livorno 27 (0)2001 Südtirol-Alto Adige 0 (0)Kepelatihan2001–2004 Vicenza (tim junior…

Premier of British Columbia from 2001 to 2011 For other people named Gordon Campbell, see Gordon Campbell (disambiguation). Gordon CampbellOC OBCCampbell in 2008.Canadian High Commissioner to the United KingdomIn officeSeptember 15, 2011 – July 19, 2016Prime MinisterStephen HarperJustin TrudeauPreceded byJames R. WrightSucceeded byJanice Charette34th Premier of British ColumbiaIn officeJune 5, 2001 – March 14, 2011MonarchElizabeth IILieutenant GovernorGarde GardomIona C…

Not to be confused with the season three episode, Mash Off. 8th episode of the 1st season of Glee Mash-UpGlee episodeSue Sylvester discovers that she has been cheated on by Rod RemingtonEpisode no.Season 1Episode 8Directed byElodie KeeneWritten byIan BrennanFeatured musicBust a MoveThong SongI Could Have Danced All NightWhat a Girl WantsSweet CarolineSing, Sing, Sing (With a Swing)Production code1ARC07Original air dateOctober 21, 2009 (2009-10-21)Guest appearances Patrick Gal…

American politician (1892–1951) Kenneth WherrySenate Minority LeaderIn officeJanuary 3, 1949 – November 29, 1951DeputyLeverett SaltonstallPreceded byAlben W. BarkleySucceeded byStyles BridgesLeader of the Senate Republican ConferenceIn officeJanuary 3, 1949 – November 29, 1951DeputyLeverett SaltonstallPreceded byWallace H. WhiteSucceeded byStyles BridgesSenate Majority WhipIn officeJanuary 3, 1947 – January 3, 1949LeaderWallace H. WhitePreceded byJ. Lister Hill…

Defunct flying squadron of the Royal Air Force No. XXXV (Madras Presidency) Squadron RAFXXXV Squadron badgeActive1 February 1916 – 26 June 19191 March 1929 – 8 April 19405 November 1940 – 23 February 19501 September 1951 – 11 September 19611 December 1962 – 1 March 1982Country United KingdomBranch Royal Air ForceMotto(s)Latin: Uno animo agimus(We act with one accord)[1]Battle honoursWestern Front, 1917-18*: Arras: Lys: Ypres, 1917*: Cambrai, 1917*: Somme, 1918*: Amiens: Bi…

Kembali kehalaman sebelumnya

Lokasi Pengunjung: 18.217.239.78