Lớp tàu ngầm Gato được thiết kế cho mục đích một tàu ngầm hạm đội nhằm có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[8] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.525 tấn Anh (1.549 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[3] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[3][5] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[3] cho phép đạt tốc độ tối đa 21 hải lý trên giờ (39 km/h) và 9 hải lý trên giờ (17 km/h) tương ứng.[6] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày[6] và lặn được sâu tối đa 300 ft (90 m).[6]
Lớp tàu ngầm Gato được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 3 inch/50 caliber, và thường được tăng cường một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo súng máy.50 caliber và .30 caliber.[6] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[9][10]
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện ngoài khơi New London, Connecticut và sửa chữa sau chạy thử máy, Barb gia nhập Hải đội Tàu ngầm 50 trực thuộc Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ tại Châu Âu. Trong chuyến tuần tra đầu tiên, chiếc tàu ngầm hoạt động trinh sát trước và trong lúc diễn ra Chiến dịch Torch, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Bắc Phi. Sau đó từ căn cứ tại Rosneath, Scotland, nó thực hiện thêm bốn chuyến tuần tra nhằm ngăn chặn những tàu buôn Đức Quốc xã vượt phong tỏa tại các vùng biển Châu Âu, nhưng không tìm thấy mục tiêu nào. Nó hoàn tất chuyến tuần tra thứ năm vào ngày 1 tháng 7, 1943, và quay trở về căn cứ tàu ngầm tại New London, Connecticut vào ngày 24 tháng 7.[1]
Sau chuyến tuần tra, Barb quay trở về Hoa Kỳ để được đai tu và cải biến, bao gồm việc trang bị một dàn phóng rocket 5 in (130 mm) theo yêu cầu của Hạm trưởng. Trở lại khu vực Thái Bình Dương, nó thực hiện chuyến tuần tra thứ mười hai, cũng là chuyến cuối cùng, tại vùng biển Okhotsk từ ngày 8 tháng 6. Lần đầu tiên một tàu ngầm Hoa Kỳ đã sử dụng rocket để bắn phá các thị trấn Shari, Hokkaido; Shikuka, Kashiho; và Shiritoru ở Karafuto.[14] Vào ngày 2 tháng 7, nó cũng tấn công thị trấn Kaihyo trên đảo Tyuleny (biển Okhotsk) bằng vũ khí thông thường, phá hủy 60% thị trấn. Trong đêm 22-23 tháng 7, nó cho đổ bộ một đội biệt kích được chọn giữa các thành viên thủy thủ đoàn lên Karafuto, cài chất nổ để phá hủy một đoàn tàu đường sắt.[1][15]
Quay trở về Hoa Kỳ sau khi chiến tranh kết thúc, Barb được đưa về thành phần dự bị vào ngày 9 tháng 3, 1946, rồi được cho xuất biên chế tại New London, Connecticut vào ngày 12 tháng 2, 1947.[1][11][12]
Được chuyển cho chính phủ Ý theo Chương trình Viện trợ Quân sự vào ngày 13 tháng 12, 1954, chiếc tàu ngầm tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Ý như là chiếc Enrico Tazzoli (S 511), tên được đặt theo Enrico Tazzoli (1812-1852), một tu sĩ và là một nhà yêu nước Ý. Con tàu ngừng hoạt động vào năm 1972 và được bán cho hãng Tattanelli & D'Alesio tại Livorno để tháo dỡ vào ngày 1 tháng 4, 1975.[1][11][12]
Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN0-85368-203-8.
Allbury, A. G. (1974). Bamboo and Bushido. Robert Hale & Co. ISBN978-0709145585.
Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN0-313-26202-0.
Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN1-55750-217-X.