Trận chiến Eo biển Otranto (1917)

Trận chiến Eo biển Otranto
Một phần của chiến trường Địa Trung Hải trong Thế chiến thứ nhất

SMS Novara in action
Thời gian14–15 tháng 5 năm 1917
Địa điểm
Kết quả Hải quân Áo-Hung chiến thắng
Tham chiến
 Liên hiệp Anh
Vương quốc Ý Ý
 Pháp
Đế quốc Áo-Hung Áo-Hung
Đế quốc Đức Đức
Chỉ huy và lãnh đạo
Vương quốc Ý Alfredo Acton Đế quốc Áo-Hung Miklós Horthy Bị thương trong chiến trận
Lực lượng
2 tuần dương hạm hạng nhẹ
10 khu trục hạm
47 tàu lưới nổi
1 tuần dương hạm bọc thép
3 tuần dương hạm hạng nhẹ
4 khu trục hạm
3 tàu ngầm
Thương vong và tổn thất
1 tuần dương hạm hạng nhẹ bị thương
2 khu trục hạm bị chìm
1 khu trục hạm bị thương
2 chuyển vận hạm bị chìm
14 tàu lưới nổi bị chìm
4 tàu lưới nổi bị thương
2 tuần dương hạm hạng nhẹ bị thương

Trận chiến Eo biển Otranto là một nỗ lực của Hải quân Đế quốc Áo-Hung trong việc phá vỡ Rào chắn Otranto của hải quân phe Hiệp ước tại eo biển Otranto trong hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 1917. Đây là cuộc đối đầu lớn nhất giữa những tàu nổi tại vùng Địa Trung Hải trong Thế chiến thứ nhất, cũng là lần đầu tiên có sự kết hợp của tàu ngầm, chiến hạm mặt biểnkhí cụ bay.[1]

Hải quân Áo-Hung do Hạm trưởng Miklós Horthy chỉ huy dự tính phá vỡ Rào chắn Otranto bằng một lực lượng gồm ba tuần dương hạm và hai khu trục hạm để cho các tàu ngầm Áo-Hung có thể thoát ra biển Địa Trung Hải. Các tàu chiến Anh-Pháp-Ý đã đáp trả lại cuộc tấn công và làm hư hỏng nặng tuần dương hạm Áo-Hung SMS Novara, nhưng mất hai khu trục hạm và nhiều tàu đánh cá bằng lưới nổi được hải quân sử dụng chống tàu ngầm.

Bối cảnh trận đánh và lực lượng đôi bên

Từ đầu năm 1916, việc chuyển vận hàng hóa của khối Hiệp ước tại vùng biển Adriatic gặp nhiều khó khăn do hoạt động của các tàu ngầm U-boat khối Liên minh Trung tâm, dù hải quân Hiệp ước chiếm ưu thế hoàn toàn. Hải quân Đế quốc Đức cũng có ý đồ mở rộng tầm hoạt động của các tàu ngầm của mình ra Địa Trung Hải và các khu trục hạm cũng như tuần dương hạm Áo-Hung hỗ trợ đồng minh bằng cách kéo các tàu ngầm này đến eo biển Otranto, lối ra Địa Trung Hải từ biển Adriatic, để tiết kiệm nhiên liệu. Phe Hiệp ước quyết tâm ngăn chặn nỗ lực mở rộng tầm hoạt động của những chiếc U-boat đối phương bằng cách thiết lập Rào chắn Otranto, là một dãy các tàu lưới nổi thả lưới để phát hiện và cản trở tàu ngầm được khu trục hạm hỗ trợ. Rào chắn không thưc sự tác dụng trong việc tiêu diệt các tàu ngầm Đức-Áo, nhưng các chỉ huy tàu ngầm luôn luôn than phiền về sự phiền nhiễu của rào chắn.[2]

Tổng tư lệnh Hải quân Đế quốc Áo-Hung, Đô đốc Anton Haus, trước thực trạng này đã phải huy động các chiến hạm Áo-Hung tấn công Rào chắn Otranto để các tàu ngầm U-boat tiếp tục hoạt động hiệu quả. Ngày 31 tháng 5 năm 1916, hải quân Áo-Hung lần đầu tiên tấn công rào chắn và thu được thành công nhỏ. Đêm ngày 7 tháng 8 năm 1916, tuần dương hạm Áo-Hung SMS Novara đánh chìm hai tàu lưới nổi và làm bị thương hai chiếc khác.[3] Ngày 2 tháng 2 năm 1917, Đô đốc Haus đột ngột qua đời vì bệnh viêm phổi và Đô đốc Maximilian Njegovan lên thay chức Tổng tư lệnh Hải quân Áo-Hung. Njegovan tiếp tục cho phép tấn công Rào chắn Otranto, nhất là sau khi các chiến dịch của tàu ngầm U-boat tại Địa Trung Hải ngày càng thành công sau khi Đức tuyên bố chiến tranh tàu ngầm không hạn chế.[4]

Lực lượng Áo-Hung tham gia cuộc tấn công có ba tuần dương hạm Novara, SaidaHelgoland, hai khu trục hạm CsepelBalaton. Bên cạnh đó, hai tàu ngấm U-boat Áo-Hung, U-4U-27, cùng với tàu ngầm U-boat Đức UC-25 cũng tham gia trận đánh. Lực lượng hỗ trợ chuẩn bị sẵn có tuần dương hạm bọc thép Sankt Georg, hai khu trục hạm và bốn tàu phóng lôi, trong trường hợp cần thiết có thể huy động thêm thiết giáp hạm tiền-dreadnought Budapest và ba tàu phóng lôi nữa.[5]

Lực lượng hải quân khối Hiệp ước đêm 14 tháng 5 tuần tra trong khu vực phía bắc Rào chắn có đội tàu khu trục hạm Mirabello của Ý được hỗ trợ bởi ba khu trục hạm Pháp Commandant Rivière, BissonCimeterre. Khu trục hạm Ý Borea cũng có mặt trong khu vực để hộ tống một đoàn tàu vận tải nhỏ đến Valona.[5] Ngoài ra còn có lực lượng hỗ trợ đóng tại cảng Brindisi, bao gồm hai tuần dương hạm Anh DartmouthBristol cùng một số khu trục hạm của Ý và Pháp.[6]

Diễn biến

Cuộc tấn công các tàu lưới nổi

18 giờ 20 phút ngày 14 tháng 5, khu trục hạm CsepelBalaton rời căn cứ Cattato hướng về phía nam để trinh sát hoạt động địch quân tại vùng bờ biển Albania và eo biển Otranto. Đến 19 giờ 45 phút, ba tuần dương hạm Áo-Hung Novara, SaidaHelgoland cũng rời căn cứ Cattaro và tiến về phía bắc Rào chắn. Hạm trưởng Miklós Horthy chỉ huy cuộc tấn công trên chiếc Novara.[7]

Horthy tin rằng với hỏa lực vượt trội và sự bất ngờ, ông sẽ gây cho rào chắn một đòn nặng nề. Ông và hạm trưởng trên hai tuần dương hạm còn lại đồng ý chờ đến rạng sáng sẽ tấn công. Nhiều tàu lưới nổi đã phát hiện ra chiếc Helgoland khi chiếc tàu này đi đến phía trước để trinh sát nhưng lại nhầm lẫn đây là chiến hạm bạn. Lúc 4 giờ 20 phút sáng, chiếc Saida bắt đầu khai hỏa, kế tiếp là Helgoland vào lúc 4 giờ 53 phút và Novara vào lúc 5 giờ 7 phút.[8] Trước khi khai hỏa, các tàu Áo-Hung đã cảnh báo các thủy thủ tàu lưới nổi bỏ tàu trước khi bị tấn công.[9] Một số tàu lưới nổi đã từ chối và bắn trả với các khẩu pháo nhỏ 6-pounder, điển hình như chiếc Gowan Lee và sau đó nó đã bị thương nặng nhưng may không bị chìm. Thuyền trưởng của nó, ông Joseph Watt, được trao tặng Huân chương Victoria sau trận đánh này.[10]

Trong đêm 14 tháng 5 có tổng cộng 47 tàu lưới nổi và đã có 14 tàu bị hải quân Áo-Hung đánh chìm (Helgoland đánh chim bốn, Saida đánh chìm ba và Novara đánh chìm bảy), cùng với bốn chiếc khác bị hư hại.[10] Ba tuần dương hạm còn bắt được 72 tù binh.[8] Do không được bảo vệ thỏa đáng, các tàu lưới nổi còn lại đã phải rút chạy.[11] Khi mặt trời dần ló dạng, Horthy bắt đầu lệnh cho ba chiếc tàu rút về Cattaro và tin rằng đối phương đã biết đến sự hiện diện của mình.[8]

Lúc 3 giờ 6 phút, hai khu trục hạm CsepelBalaton phát hiện ba tàu vận tải Ý được khu trục hạm Borea hộ tống tại vùng biển Albania. Vào khoảng 3 giờ 24 phút sáng, hai khu trục hạm Áo-Hung bắt đầu tấn công và đánh chìm chiếc Borea cùng một tàu chở đạn dược. Một tàu chở đạn khác của Ý bắt lửa và thủy thủ đoàn buộc phải bỏ tàu.[5]

Giao tranh giữa các chiến hạm

Vào thời điểm này, lực lượng hải quân Hiệp ước đã biết được cuộc tấn công đang diễn ra và bắt đầu vào vị trí chặn cuộc rút lui của các tàu chiến Áo-Hung. Phó Đô đốc Ý Alfredo Acton, ra lệnh cho đội tàu Mirabello tiến về phía nam vào lúc 4 giờ 35 phút sáng, trong khi ông lên tuần dương hạm hạng nhẹ HMS Dartmouth.[10] Đến 6 giờ 45 phút sáng, tuần dương hạm DartmouthBristol cùng với 5 khu trục hạm Ý Mosto, Pilo, Schiaffino, AcerbiAquila di chuyển lên hướng bắc để chặn các tuần dương hạm Áo-Hung. Tuần dương hạm hạng nhẹ Ý Marsala, các khu trục hạm Carlo Alberto Racchia Insidioso, IndomitoImpavido cũng sẵn sàng hỗ trợ.[10]

Đội tàu Mirabello chạm trán các tuần dương hạm Áo-Hung vào lúc 7 giờ sáng nhưng do hỏa lực quá chênh lệch nên chuyển qua làm nhiệm vụ che chở cho các tuần dương hạm chạy trốn. Lúc 7 giờ 45, các chiến hạm Ý đụng độ hai khu trục hạm CsepelBalaton. Sau 20 phút, các khu trục hạm Ý áp sát các khu trục hạm Áo-Hung. Hai bên có cuộc đọ pháo ngắn trước khi một quả đạn pháo từ chiếc Csepel bắn trúng chiếc Aquila và làm ngừng hoạt động nồi hơi của chiến hạm này. Đến thời điểm này, các khu trục hạm Áo-Hung đã được che chở bởi các pháo bờ biển Durazzo và có thể chạy thoát thành công.[10]

Lúc 9 giờ sáng, tuần dương hạm Bristol phát hiện ra khói từ tuần dương hạm Áo-Hung ở phía nam vị trí của mình.[10] Các tàu chiến Anh có hỏa lực mạnh hơn và số lượng đông hơn với chiếc Dartmouth được trang bị sáu khẩu pháo 6 inch (150 mm) và Bristol có hai khẩu pháo 6 inch và mười khẩu pháo 4 inch (100 mm), so với chín khẩu pháo 3.9 inch (99 mm) trên mỗi tuần dương hạm Áo-Hung.[12] Tuy nhiên ưu thế về số lượng của các tàu chiến phe Hiệp ước nhanh chóng biến mất khi các khu trục hạm gặp vấn đề máy móc hoặc phải làm nhiệm vụ bảo vệ những khu trục hạm khác bị hư hỏng.[12] Lực lượng hỗ trợ của cả đôi bên – nhóm tàu Sankt Georg của Áo-Hung và nhóm tàu Marsala của phe Hiệp ước cũng nhanh chóng tham gia trận chiến.

Chiếc Dartmouth — nhanh hơn chiếc Bristol — tiến gần đến tàu chiến Áo-Hung và khai hỏa. Một quả đạn pháo bắn trúng tuần dương hạm Novara của Áo-Hung, khi con tàu này đang tạo lớp màn khói nhằm áp sát để tấn công hiệu quả hơn chiến hạm Anh. Chiếc Dartmouth sau đó cũng bị trúng đạn nhiều lần, và đến 11 giờ, Đô đốc Acton hạ lệnh cho chiếc tàu này giảm tốc độ để chiếc Bristol có thể bắt kịp.[13] Chiếc Novara bị trúng nhiều phát đạn, hư bơm nước chính và ống dẫn hơi nước phụ hữu mạn, và dần dần chậm lại. Hạm trưởng Horthy cũng bị thương do một quả đạn pháo bắn trúng gần tháp điều khiển.[14] Lúc 11 giờ 5, Đô đốc Acton chuyển sang mục tiêu tách rời chiếc Saida ra khỏi hai chiếc NovaraHelgoland. May mắn cho phía Áo-Hung là chiếc tuần dương hạm Sankt Georg có mặt kịp thời buộc Acton phải cho lực lượng của mình tạm thời rút lui để củng cố lại, và nhân cơ hội đó chiếc Saida đã đứng ra kéo chiếc Novara đang bị thương còn chiếc Helgoland làm nhiệm vụ che chở tàu bạn.[13]

Do Đô đốc Acton không hề biết việc chiếc Novara đã bị tê liệt và lo ngại các chiến hạm của mình sẽ đến quá gần căn cứ hải quân Áo tại Cattaro, ông ra lệnh bỏ dở cuộc truy đuổi. Chiếc khu trục hạm Acerbi hiểu sai tín hiệu và dự định phóng ngư lôi tấn công chiến hạm Áo-Hung nhưng bị hỏa lực của cả ba chiếc Novara, SaidaHelgoland đẩy lùi. Lúc 12 giờ 5 phút, Acton lúc này mới nhận ra tình trạng tồi tệ của chiếc Novara nhưng lúc này đội tàu Sankt Georg đã áp sát.[15] Đội tàu Sankt Georg sau đó đã gặp gỡ ba chiếc tuần dương hạm Novara, SaidaHelgoland, trước khi sau đó hai khu trục hạm CsepelBalaton cũng đến để cùng nhau trở về căn cứ Cattaro.[15] Các tuần dương hạm Áo-Hung đã may mắn chạy thoát khi tổng cộng chiếc Novara bị trúng hơn 35 quả đạn pháo, Helgoland trúng năm quả và Saida trúng ba quả.[14]

Lúc 13 giờ 30, tàu ngầm Đức UC-25 phóng ngư lôi trúng chiếc Dartmouth và gây hư hỏng nặng cho chiếc tàu này. Các khu trục hạm hộ tống đuổi được UC-25 ra khỏi khu vực. Lệnh bỏ tàu Dartmouth được đưa ra khi thấy có dấu hiệu nó bắt đầu chìm, nhưng sau đó chiếc tàu may mắn được kéo về cảng. Còn khu trục hạm Pháp Boutefeu cố gắng đuổi theo chiếc tàu ngầm Đức không may trúng thủy lôi và chìm một cách nhanh chóng.[15]

Kết quả

Sau cuộc đột kích này, các chỉ huy hải quân Anh quyết định rằng trừ khi có đủ khu trục hạm che chở cho rào chắn, các tàu lưới nổi buộc phải rút đi trong đêm.[16] Các tàu lưới nổi sẽ chỉ hoạt động dưới 12 giờ/ngày và phải rời vị trí từ 15 giờ hàng ngày.[17] Phía Áo-Hung trong trận này chỉ bị thương một chiếc tuần dương hạm, nhưng dánh chìm được nhiều tàu lưới nổi và cả tàu chở đạn của đối phương. Tuần dương hạm Anh Dartmouth cũng bị hư hỏng nặng và khu trục hạm Pháp Boutefeu còn bị chìm do thủy lôi. Trận đánh này là một cú hích lớn cho tinh thần hải quân Áo cũng như làm suy yếu Rào chắn Otranto.[14]

Tuy nhiên, xét về mặt chiến lược, trận đánh hầu như không có ảnh hưởng gì đến cuộc chiến. Thực tế rào chắn tàu ngầm U-boat không hiệu quả do chỉ hơn một nửa eo biển rộng 40 dặm (64 km) có thể kiểm soát được. Cuộc tấn công này đầy mạo hiểm và huy động một số tàu chiến hiện đại nhất của hạm đội Áo-Hung nhưng lại không đem lại hiệu quả nhiều về mặt chiến lược.[17]

Chú thích

  1. ^ Marshall Cavendish Corporation 2002, tr. 396.
  2. ^ Ryan 2016, tr. 35.
  3. ^ Ryan 2016, tr. 36.
  4. ^ Ryan 2016, tr. 38.
  5. ^ a b c Halpern 1995, tr. 162.
  6. ^ Burg và Purcell 2004, tr. 169.
  7. ^ Ryan 2016, tr. 38-39.
  8. ^ a b c Ryan 2016, tr. 39.
  9. ^ Halpern 1995, tr. 162-163.
  10. ^ a b c d e f Halpern 1995, tr. 163.
  11. ^ Tucker 2005, tr. 1357.
  12. ^ a b Halpern 1995, tr. 163-164.
  13. ^ a b Halpern 1995, tr. 164.
  14. ^ a b c Ryan 2016, tr. 42.
  15. ^ a b c Halpern 1995, tr. 165.
  16. ^ Halpern 1995, tr. 165-166.
  17. ^ a b Halpern 1995, tr. 166.

Tham khảo

  • Ryan K. Noppen (2016). Austro-Hungarian Cruisers and Destroyers 1914–18. Bloomsbury Publishing. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2018. It had been a fortuitous escape for Horthy and his cruisers with Novara being disabled in action while suffering over 35 hits, Helgoland five, and Saida three. (dịch Horthy và hạm đội tuần dương may mắn thoát nạn khi tàu Novara không thể chiến đấu vì dính hơn 35 quả đạn pháo, Helgoland trúng năm và Saida trúng ba.)
  • Marshall Cavendish Corporation (2002). History of World War I. 2. Marshall Cavendish. ISBN 0-7614-7231-2. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2018.
  • Burg, David F.; Purcell, L. Edward (2004). Almanac of World War I. University Press of Kentucky. ISBN 0-8131-9087-8.
  • Halpern, Paul G. (1995). A Naval History of World War I. Annapolis: Naval Institute Press. ISBN 1-55750-352-4.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  • Tucker, Spencer E. (2005). The Encyclopedia of World War I. ABC-CLIO. ISBN 1-85109-420-2.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)

Read other articles:

Georges RivièreLahirGeorges Aristide Claude Félix Rivière(1924-07-01)1 Juli 1924[1]Tahiti, Polinesia PrancisPekerjaanPemeranTahun aktif1948–1970Suami/istriLucile Saint-Simon Georges Aristide Claude Félix Rivière (lahir 1 Juli 1924) adalah seorang pemeran asal Prancis yang berkarya dalam sinema Argentina pada 1950an.[2] Ia tampil dalam nyaris 50 film antara 1948 dan 1970. Referensi ^ Le Gens du Cinema: Georges Rivière. Diarsipkan dari versi asli tanggal 2021-10-26...

 

Gatot IstantoAKBP Gatot Istanto S.I.K. Kapolres SeruyanPetahanaMulai menjabat 16 Februari 2022 s/d - PendahuluBayu WicaksonoPenggantiPetahana Informasi pribadiLahir18 Februari 1978 (umur 46)Banjarmasin, Kalimantan SelatanSuami/istriSiswati Radjah, S.H., MH.AnakCahyani Putri Istanto Rizkidhana Putra IstantoAlma materAkademi Kepolisian (2000)PekerjaanPolisiKarier militerPihak IndonesiaDinas/cabang Kepolisian Daerah Kalimantan TengahMasa dinas2000—sekarangPangkat Ajun Komisa...

 

Noncyclic photophosphorylation through light-dependent reactions of photosynthesis at the membran tilakoid Dalam proses fotosintesis, fosforilasi ADP untuk membentuk ATP menggunakan energi sinar matahari disebut fotofosforilasi. Hanya dua sumber energi yang tersedia untuk organisme hidup: sinar matahari dan reaksi reduksi-oksidasi (redoks). Semua organisme menghasilkan ATP, yang merupakan mata uang energi kehidupan universal. Dalam fotofosforilasi, energi cahaya digunakan untuk membuat donor ...

الدوري الأوروبي الشعار الحالي للدوري الأوروبي معلومات عامة الرياضة كرة القدم انطلقت 1971 (2009 في شكله الحالي) المنظم الاتحاد الأوروبي لكرة القدم التواتر سنوية عدد المشاركين 48 (مرحلة المجموعات)+8 أندية تنضم بعد انتهاء دوري الأبطال مرحلة المجموعات[1] 160 (مجموع) الموقع الرسمي...

 

العلاقات التشادية السنغافورية تشاد سنغافورة   تشاد   سنغافورة تعديل مصدري - تعديل   العلاقات التشادية السنغافورية هي العلاقات الثنائية التي تجمع بين تشاد وسنغافورة.[1][2][3][4][5] مقارنة بين البلدين هذه مقارنة عامة ومرجعية للدولتين: وجه المقار...

 

العلاقات الأوكرانية السنغالية أوكرانيا السنغال   أوكرانيا   السنغال تعديل مصدري - تعديل   العلاقات الأوكرانية السنغالية هي العلاقات الثنائية التي تجمع بين أوكرانيا والسنغال.[1][2][3][4][5] مقارنة بين البلدين هذه مقارنة عامة ومرجعية للدولتين: �...

زيني ماكس ميديازيني ماكس ميدياالشعارمعلومات عامةالبلد الولايات المتحدة التأسيس مايو 1999النوع ملكية خاصةالشكل القانوني شركة خاصة المقر الرئيسي روكفيل، الولايات المتحدةموقع الويب zenimax.com (الإنجليزية) المنظومة الاقتصاديةالشركة الأم إكس بوكس غيم ستوديوز[1] (2021 – 2022)مايك�...

 

UNESCO World Heritage Site in Massif Central, France CaussesUNESCO World Heritage SiteCausse Méjean in Massif Central, Cévennes National Park, FranceLocationMassif Central, FrancePart ofThe Causses and the Cévennes, Mediterranean agro-pastoral Cultural LandscapeCriteriaCultural: (iii)(v)Reference1153revInscription2011 (35th Session)Coordinates44°9′N 3°15′E / 44.150°N 3.250°E / 44.150; 3.250Location of Causses in France The Causses (French pronunciation:...

 

Khalid Bakdash Informasi pribadiLahir1912Damaskus, SuriahMeninggal1995 (umur 83)Damaskus, SuriahKebangsaanSuriahnPekerjaanSekertaris jendral dari Partai Komunis SuriahAnggota dari Parlemen SuriahSunting kotak info • L • B Khalid Bakdash (1912–1995; umunya dieja Khalid Bagdash, Arab: خالد بكداشcode: ar is deprecated ) adalah pemimpin Partai Komunis Suriah dari tahun 1936 sampai pada kematiannya. Pada tahun 1954 Bakdash menjadi anggota pertama dari partai komunis yang t...

0+1=1 (I Promise You)Album mini karya Wanna OneDirilis19 Maret 2018Genre Dance-pop EDM balada R&B BahasaKoreaLabel YMC Entertainment Stone Music Entertainment CJ E&M Music Kronologi Wanna One 1-1=0 (Nothing Without You)(2017) 0+1=1 (I Promise You)(2018) 1÷x=1 (Undivided)(2018) Singel dalam album 0+1=1 (I Promise You) I Promise You (I.P.U.)Dirilis: 5 Maret 2018 BoomerangDirilis: 19 Maret 2018 0+1=1 (I Promise You) adalah album mini kedua dari grup vokal pria asal Korea Selatan Wan...

 

Belgian engineering company For the original incarnation of the company, see John Cockerill (company, 1825–1955). John Cockerill GroupTrade nameJohn CockerillFormerlyCockerill Maintenance & IngénierieCompany typePrivateIndustryEngineeringPredecessorPart of Cockerill-SambreFounded2002HeadquartersSeraing, BelgiumRevenue660,000,000 United States dollar (2015) Websitejohncockerill.com John Cockerill, formerly Cockerill Maintenance & Ingénierie (CMI),[1] is a mechanical en...

 

ÖFB-Cup 1974-1975 Competizione ÖFB-Cup Sport Calcio Edizione 41ª Organizzatore ÖFB Luogo  Austria Risultati Vincitore  SSW Innsbruck Secondo  Sturm Graz Cronologia della competizione 1973-74 1975-76 Manuale La ÖFB-Cup 1974-1975 è stata la 41ª edizione della coppa nazionale di calcio austriaca. Indice 1 Ottavi di finale 2 Quarti di finale 3 Semifinale 4 Finale 5 Collegamenti esterni Ottavi di finale Squadra 1 Risultato Squadra 2 12 ottobre 1974 LASK  2 - 1 (dts) ...

2020年夏季奥林匹克运动会波兰代表團波兰国旗IOC編碼POLNOC波蘭奧林匹克委員會網站olimpijski.pl(英文)(波兰文)2020年夏季奥林匹克运动会(東京)2021年7月23日至8月8日(受2019冠状病毒病疫情影响推迟,但仍保留原定名称)運動員206參賽項目24个大项旗手开幕式:帕维尔·科热尼奥夫斯基(游泳)和马娅·沃什乔夫斯卡(自行车)[1]闭幕式:卡罗利娜·纳亚(皮划艇)&#...

 

  لمعانٍ أخرى، طالع جبل أوليمبوس (توضيح). جبل أوليمبوس الموقع اليونان المنطقة بييريا،  ومقدونيا الوسطى  إحداثيات 40°04′N 22°21′E / 40.06°N 22.35°E / 40.06; 22.35 [1]  الارتفاع 2,917.727 متر (9,572.60 قدم) المساحة 19139.59 هكتار[2]  النتوء 2,355 متر (7,726 قدم) تعديل مصدر...

 

أرض سوبارتو (بالأكدية: سوبارتوم، صوبارتوم.[1][2] بالسومرية: سوبار، صوبار)، هي من منطقة مذكورة في عدة كتابات من العصر البرونزي، ورد أسم المنطقة تحت أسم سوباري في رسائل تل العمارنة، كما سميت ب-صبر في أوغاريت. يعتقد الباحثون بأن سوبارتو كان كياناً سياسيا تحت تأثير الحور�...

هذه المقالة تحتاج للمزيد من الوصلات للمقالات الأخرى للمساعدة في ترابط مقالات الموسوعة. فضلًا ساعد في تحسين هذه المقالة بإضافة وصلات إلى المقالات المتعلقة بها الموجودة في النص الحالي. (يوليو 2019) منتخب كرواتيا لكرة الصالات بلد الرياضة كرواتيا  رمز الفيفا POR  تعديل مصدري...

 

Saiguède Le kiosque. Blason Administration Pays France Région Occitanie Département Haute-Garonne Arrondissement Muret Intercommunalité Le Muretain Agglo Maire Mandat Catherine Cambefort 2020-2026 Code postal 31470 Code commune 31466 Démographie Gentilé Saiguediens Populationmunicipale 803 hab. (2021 ) Densité 68 hab./km2 Géographie Coordonnées 43° 31′ 48″ nord, 1° 08′ 41″ est Altitude Min. 208 mMax. 312 m Superficie 11,86&...

 

  لمعانٍ أخرى، طالع رمضان (توضيح).   هذه المقالة عن شهر رمضان. لرمضان في الإسلام، طالع رمضان. رَمَضَانمعلومات عامةصنف فرعي من شهر هجري المدة 30 يوم[1] الفهرس الزمني 9 شهر شعبان شَوَّال تعديل - تعديل مصدري - تعديل ويكي بيانات <<رمضان - 1446 هـ>>السبتالأحدالاثنينا...

Bagian dari seri mengenai Sejarah Indonesia Prasejarah Manusia Jawa 1.000.000 BP Manusia Flores 94.000–12.000 BP Bencana alam Toba 75.000 BP Kebudayaan Buni 400 SM Kerajaan Hindu-Buddha Kerajaan Kutai 400–1635 Kerajaan Tarumanagara 450–900 Kerajaan Kalingga 594–782 Kerajaan Melayu 671–1347 Kerajaan Sriwijaya 671–1028 Kerajaan Sunda 662–1579 Kerajaan Galuh 669–1482 Kerajaan Mataram 716–1016 Kerajaan Bali 914–1908 Kerajaan Kahuripan 1019&#...

 

Malaysian politician (1923–2024) Abdullah CDChairman of the Central Committee of the Malayan Communist PartyIn office1988 – 2 December 1989Preceded byMusa AhmadPolitburo Member of the Malayan Communist PartyIn office15 May 1957 – 2 December 1989Commander of the 10th Malay Regiment of the Malayan National Liberation ArmyIn office21 May 1949 – 2 December 1989 Personal detailsBornCik Dat bin Anjang Abdullah(1923-10-02)2 October 1923Lambor Kiri, Parit, Perak, Fe...