S. niger có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 40 cm[3]. Vây đuôi cụt hoặc hơi bo tròn ở cá cái, hai thùy đuôi phát triển dài hơn tạo thành hình lưỡi liềm ở cá đực. Cá đực có thể có thêm hai răng nanh ở phía sau phiến răng hàm trên (cá cái thường không có răng nanh); phiến răng của hai giới có màu xanh lục lam. Đầu (cá đực lẫn cá cái) có các vệt sọc màu xanh lục lam: hai dưới cằm, một trên môi trên, một ở dưới miệng và kéo dài ra sau mắt, hai ở sau mắt[4][5].
S. niger ở hai đại dương có kiểu hình khác biệt, nhiều khả năng đây là quần thể của hai loài riêng biệt, nhưng phân tích di truyền chưa được tiến hành để phân loại đối với loài này[1]. S. niger (cái) Thái Bình Dương có màu đỏnâu, chuyển thành đỏ cam ở đầu; vảy có viền nâu tạo thành các vệt trên thân[5]. S. niger (cái) Ấn Độ Dương có nhiều vệt sọc màu trắng ở hai bên thân[4][6].
Cá đực có màu xanh lục lam sẫm, vảy trên thân có viền màu đỏ thẫm và thường có các chấm đen. Nắp mang có một đốm màu vàng lục. Vây ngực có màu hồng ửng đỏ (AĐD) hoặc xanh tím (TBD). Môi trên màu cá hồi (hồng cam). Thùy đuôi có dải màu cam viền xanh lam. Cá con có màu nâu sẫm với nhiều chấm màu xanh lam sáng trên thân, chuyển thành đỏ cam ở cuống đuôi, còn vây đuôi màu trắng với 2 đốm đen nổi bật[4][5][7].
Số gai vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 13–15[3][4][5].
Sinh thái học
Thức ăn của S. niger chủ yếu là tảo[3]. S. niger đực sống theo chế độ hậu cung, gồm nhiều con cái cùng sống trong lãnh thổ của nó; cá con thường sống thành từng nhóm nhỏ và sống gần các thảm tảo và san hô[3].
S. niger được đánh bắt để làm thực phẩm, chủ yếu được tiêu thụ tại địa phương[1].
^R.D. Stuart-Smith; G.J. Edgar; A.J. Green; I.V. Shaw biên tập (2015). “Scarus niger Scaridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)