Trong âm nhạc, sampling là hành động lấy một phần nhạc, một mẩu âm thanh (ví dụ: tiếng trống, tiếng đàn organ, tiếng hát) của một bản nhạc đã được thu âm trước đó và sử dụng lại cho một bản nhạc khác. Các mẫu có thể gồm các yếu tố như nhịp điệu, giai điệu, lời nói, âm thanh hoặc toàn bộ thanh nhạc và có thể được phân lớp,cân bằng, tăng tốc hoặc giảm tốc độ, chuyển mạch lại, lặp nhạc, hoặc thao tác khác. Chúng thường được tích hợp bằng phần cứng (bộ lấy mẫu) hoặc phần mềm như máy trạm âm thanh kỹ thuật số.
Một quy trình tương tự như lấy mẫu bắt nguồn từ thập niên 1940 với musique concrète, âm nhạc thử nghiệm được tạo ra với băng cát xét và đĩa than trên máy quay đĩa. Giữa thế kỷ 20 là sự ra đời của các nhạc cụ bàn phím phát âm thanh được ghi trên băng, chẳng hạn như Mellotron. Thuật ngữ sampling được đặt ra vào cuối thập niên 1970 bởi những người sáng tạo ra Fairlight CMI, một bộ tổng hợp có khả năng ghi và phát lại các âm thanh ngắn. Khi công nghệ được cải thiện, các trình lấy mẫu độc lập rẻ hơn với nhiềubộ nhớ hơn đã xuất hiện, chẳng hạn như E-mu Emulator, Akai S950 và Akai MPC.
Việc lấy sampling mà không được phép có thể vi phạm bản quyền hoặc có thể là sử dụng hợp lý. Quá trình xin phép gọi làclearance, một quá trình phức tạp và tốn kém; mẫu từ các nguồn nổi tiếng hiện nay thường rất đắt. Tòa án đã có những quan điểm khác nhau về việc có được phép lấy mẫu mà không có sự cho phép hay không. Trong Grand Upright Music, Ltd. v. Warner Bros. Records Inc, 780 F. Supp. 182 (S.D.N.Y. 1991) vàBridgeport Music, Inc. v. Dimension Films, 410 F.3d 792 (6 Cir. 2005), tòa phán quyết lấy mẫu không có giấy phép sẽ cấu thành tội vi phạm bản quyền. Tuy nhiên, trong VMG Salsoul v Ciccone, 824 F.3d 871 (9 Cir. 2016) đã phát hiện ra rằng các mẫu không có giấy phép đã cấu thành sao chép de minimisvà do đó không vi phạm bản quyền.
Tiền thân
Việc tái tạo các hiệu ứng âm thanh gọi là Foleyđã tồn tại từ thập niên 1920. Vào thập niên 1940, nhà soạn nhạc người Pháp Pierre Schaeffer đã phát triển musique concrète, một hình thức âm nhạc thử nghiệm được tạo ra bằng cách ghi âm vào băng cát xét, nối và thao tác với chúng để tạo ghép âm thanh. Ông sử dụng âm thanh từ các nguồn như cơ thể người, đầu máy xe lửa và đồ dùng nhà bếp.[1] Phương pháp này cũng liên quan đến vòng lặp băng, nối các độ dài của băng từ đầu đến cuối để âm thanh có thể phát ra vô thời hạn.[1] Schaeffer đã phát triển Phonogene, chơi các vòng lặp ở 12 cao độ khác nhau được kích hoạt bằng bàn phím.[1]
^Sheppard, David (tháng 7 năm 2001). “Cash for Questions”. Q.
Đọc thêm
Katz, Mark. "Music in 1s and 0s: The Art and Politics of Digital Sampling." In Capturing Sound: How Technology has Changed Music (Berkeley: University of California Press, 2004), 137–57. ISBN0-520-24380-3