Ruby được tạo ra từ 24 tháng 2 năm 1993, bởi lập trình viên người Nhật Bản tên là Matsumoto Yukihiro (松本 行弘), biệt danh Matz. Phiên bản chính thức 0.95 (Đây là phiên bản công khai đầu tiên của Ruby được công bố tại Nhật Bản) vào ngày 21 tháng 12 năm 1995. Ở phiên bản Ruby 0.95, nó đã có nhiều tính năng quen thuộc trong các phiên bản sau của Ruby, bao gồm thiết kế hướng đối tượng, các lớp với kế thừa, mixin, vòng lặp, xử lý ngoại lệ và thu gom rác.
Ruby 1.9 được phát hành vào ngày Giáng sinh năm 2007. Hiệu quả với Ruby 1.9.3, phát hành ngày 31 tháng 10 năm 2011, Ruby chuyển từ việc được cấp phép kép theo Giấy phép Ruby và GPL để được cấp phép kép theo Giấy phép Ruby và giấy phép BSD hai điều khoản. Việc chuyển đổi sang phiên bản 1.9 từ 1.8 đã bị chậm lại do nhiều gems phổ biến cần được viết lại.
Ruby 1.9 giới thiệu nhiều thay đổi đáng kể so với các phiên bản 1.8. Ví dụ:
Giới hạn vùng tham chiếu của các biến cục bộ (các biến cục bộ chỉ được sử dụng ở trong các block mà chúng được khai báo)
Ruby 1.9 đã lỗi thời kể từ ngày 23 tháng 2 năm 2015,[11] và nó sẽ không còn nhận được bản sửa lỗi và bảo mật nữa. Người dùng nên nâng cấp lên phiên bản mới hơn.
Bảng các phiên bản Ruby
Phiên bản
Phiên bản nâng cấp
Ngày phát hành
Kết thúc giai đoạn hỗ trợ
Kết thúc giai đoạn bảo trì bảo mật
1.0
Chưa rõ
25/12/1996
Chưa rõ
Chưa rõ
1.8
1.8.7-p374
04/08/2003
06/2012
01/07/2014
1.9
1.9.3-p551
25/12/2007
24/02/2014
23/02/2015
2.0
2.0.0-p648
24/02/2013
24/02/2016
24/02/2016
2.1
2.1.10
25/12/2013
30/03/2016
31/03/2017
2.2
2.2.10
25/12/2014
28/03/2017
31/03/2018
2.3
2.3.8
25/12/2015
28/03/2018
31/03/2019
2.4
2.4.10
25/12/2016
01/04/2019
31/03/2020
2.5
2.5.9
25/12/2017
01/04/2020
05/04/2021
2.6
2.6.10
25/12/2018
01/04/2021
12/04/2022
2.7
2.7.8
25/12/2019
01/04/2022
31/03/2023
3.0
3.0.7
25/12/2020
01/04/2023
23/04/2024
3.1
3.1.6
25/12/2021
01/04/2024
31/03/2025 (dự kiến)
3.2
3.2.6
25/12/2022
Chưa công bố
31/03/2026 (dự kiến)
3.3
3.3.6
25/12/2023
Chưa công bố
31/03/2027 (dự kiến)
3.4
3.4.?
Chưa công bố
Chưa công bố
Chưa công bố
Chú thích:
Hiện tại Ruby chỉ hỗ trợ phiên bản: 3.1, 3.2 và 3.3.[11] Các phiên bản trước đó đã cũ và không còn được hỗ trợ.
3.3.6 là phiên bản mới nhất của Ruby
Thông tin các phiên bản Ruby được tham khảo từ các trang Ruby Releases[12] và Ruby Maintenance Branches[11]
Cái tên Ruby
Nguồn gốc của cái tên "Ruby" là từ một phiên chat online giữa Matsumoto và Ishitsuka Keiji vào ngày 24 tháng 2 năm 1993, trước khi bất kỳ đoạn mã nào được viết cho ngôn ngữ này. Ban đầu, "Coral" và "Ruby" là hai cái tên được đề xuất. Matsumoto chọn tên sau trong email gửi đến Ishitsuka. Sau này Matz cũng bất ngờ khi phát hiện ra Pearl là viên đá quý tượng trưng cho những người sinh tháng 6, còn Ruby thì tượng trưng cho những người sinh tháng 7. Anh cho rằng cái tên Ruby như thế là phù hợp vì Ruby kế thừa và phát triển nhiều đặc tính từ Perl [13][14].
Quan điểm
Quan điểm chính trong việc thiết kế của Matz là nhằm giảm thiểu các công việc nhàm chán mà họ, các nhà lập trình, buộc phải làm; tiếp đến là nguyên tắc thiết kế giao diện người dùng (user interface) hiệu quả.[15] Ông nhấn mạnh rằng việc thiết kế hệ thống cần phải tập trung vào con người, hơn là vào máy tính:[16]
Often people, especially computer engineers, focus on the machines. They think, "By doing this, the machine will run faster. By doing this, the machine will run more effectively. By doing this, the machine will something something something." They are focusing on machines. But in fact we need to focus on humans, on how humans care about doing programming or operating the application of the machines. We are the masters. They are the slaves.
Ngôn ngữ Ruby được thiết kế nhằm theo nguyên tắc ít gây ngạc nhiên nhất (principle of least surprise-POLS), nghĩa là ngôn ngữ hoạt động theo một cách trực quan hay ít nhất đó cũng là nhận xét mà các nhà lập trình đưa ra. Nguyên tắc này không xuất phát từ Matz và, nói chung, Ruby gần với suy nghĩ ít ngạc nhiên nhất của 'Matz' hơn.
Ngữ nghĩa
Ruby là một ngôn ngữ hướng đối tượng: mỗi giá trị đều là một đối tượng (object), bao gồm các kiểu dữ liệu mà đối với các ngôn ngữ khác, chúng là kiểu cơ bản (primitive) như integer. Mỗi hàm (function) là một phương thức (method). Tên biến (variables) chính là tham chiếu (references) đến các đối tượng, bản thân nó không phải là đối tượng. Ruby hỗ trợ kế thừa (inheritance) với dynamic dispatch, mixin và singleton method (thuộc về, và để định nghĩa cho, một instance đơn hơn là định nghĩa dành cho lớp). Mặc dù Ruby không hỗ trợ đa kế thừa, các lớp vẫn có thể được đưa vào các module dưới dạng các mixins. Cú pháp dạng thủ tục (procedural syntax) vẫn còn được hỗ trợ, có vẻ như là ngoài tầm vực của mọi đối tượng, nhưng thực sự là thuộc một thể hiện của class Object tên là 'main'. Vì class này là cha của mọi class khác, nó trở trên ẩn đối với mọi lớp và đối tượng.
Ruby được xem là một ngôn ngữ lập trình đa mẫu hình (multi-paradigm programming language): nó cho phép bạn lập trình dạng thủ tục (tạo ra các hàm/biến nằm ngoài phạm vi của các lớp và biến chúng thành một phần của đối tượng gốc, 'self' Object), với khả năng hướng đối tượng (mọi thứ đều là đối tượng) hay hàm (nó có các hàm không có tên (anonymous functions), closures, và continuations; mọi câu lệnh đều có giá trị trả về, và các hàm đều trả về kết quả ước lượng cuối cùng). Nó hỗ trợ mạnh cho tự định kiểu (type introspection), reflection và meta-programming.
Theo Ruby FAQ, "Nếu bạn thích Perl, bạn sẽ thích Ruby và sẽ thấy thoải mái với cú pháp của nó. Nếu bạn thích Smalltalk, bạn sẽ thích Ruby và sẽ thấy thoải mái với ngữ nghĩa của nó (semantics). Nếu bạn thích Python, bạn có thể hoặc không thể dừng lại bởi sự khác biệt lớn trong triết lý hiện thực giữa Python và Ruby/Perl."
Trình thông dịch
Ruby có hai bản thông dịch chính: bộ thông dịch Ruby ban đầu (viết tắt là MRI), bản được dùng phổ biến nhất, và JRuby, bộ thông dịch dựa trên ngôn ngữ Java. Bộ thông dịch Ruby đã được cài đặt trên nhiều nền tảng khác nhau, bao gồm Unix, Microsoft Windows, DOS, Mac OS X, OS/2, Amiga và một số nền tảng khác. Bản chính thức của Ruby có kèm theo "IRB", là bộ thông dịch dạng dòng lệnh trực tiếp (interactive command-line interpreter) giúp cho việc kiểm tra code nhanh chóng.
Các tên bắt đầu bằng ký tự hoa được xem là hằng, vì thế biến cục bộ nên bắt đầu bằng ký tự thường.
Việc đánh giá Boolean đối với các dữ liệu không phải bool rất chặt chẽ: 0, "" và [] được xem là true: Trong C, biểu thức 0 ? 1: 0 được xem là 0. Trong Ruby, tuy nhiên, nó lại trả về 1, vì số 0 được xem là "một cái gì đó"; chỉ có nil và false mới được xem là bằng false. Một hệ luận đối với quy luật này là theo qui ước, các phương thức của Ruby—ví dụ, biểu thức chính quy tìm kiếm — sẽ trả về các số, chuỗi, danh sách etc. nếu thành công, nhưng lại trả về nil nếu thất bại (ví dụ, không tìm thấy).
Để biểu diễn một số thực dấu chấm động, ta phải theo quy tắc dùng ký số zero (99.0) hay chuyển đổi tường minh (99.to_f). Việc dùng dấu chấm là không đủ (99.) vì các số vẫn có thể nhận cú pháp có phương thức.
Thiếu một kiểu dữ liệu ký tự ("char"). Điều này có thể gây ngạc nhiên khi duyệt qua chuỗi: "abc"[0] cho ra 97 (một số nguyên, biểu diễn mã ASCII của ký tự đầu tiên trong chuỗi); để lấy được "a" dùng "abc"[0,1] (chuỗi con có chiều dài 1) hay "abc"[0].chr.
Một danh sách các lỗi thường gặp ("gotchas") có thể tra trong cuốn sách của Hal Fulton The Ruby Way, trang 48–64. Tuy nhiên, vì danh sách trong cuốn sách là dựa trên phiên bản cũ của Ruby (version 1.6), một số mục đã được sửa đổi sau khi cuốn sách ấn hành. Ví dụ, retry bây giờ làm việc được với while, until và for, cũng như với iterators.
Ví dụ
Lưu ý: Các ví dụ sử dụng chuỗi ký tự Unicode để chạy được cần đặt một biến môi trường là $KCODE="u". Hay là chạy #ruby với tùy chọn là -K u vẫn được. Xem thêm những hạn chế của phiên bản Ruby hiện tại với Unicode tại ruby và unicodeLưu trữ 2005-12-18 tại Wayback Machine
# Mọi thứ, kể cả tầm thường nhất, là một đối tượng. Vì thế những ví dụ dưới đều chạy được:-199.abs# => 199, abs: giá trị tuyệt đối"ruby is cool".length# => 12"Rick".index("c")# => 2"Nice Day Isn't It?".split(//).uniq.sort.join# => " '?DINaceinsty"
Input
print'Làm ơn gõ tên >'name=gets.chompputs"Chào #{name}."
Hội thoại
puts'Cho tôi con số của bạn'number=gets.chompputsnumber.to_ioutput_number=number.to_i+1putsoutput_number.to_s+' là một con số lớn hơn.'
Khởi tạo và xây dựng một mảng kết hợp (Ruby gọi là hash):
hash=Hash.new# Tương đương với hash = {}hash={:water=>'wet',:fire=>'hot'}# Đoạn mã đầu trở nên dư thừa khi# đưa cho hash một đối tượng hash riêng biệt mớiputshash[:fire]# Xuất ra "hot"hash.each_pairdo|key,value|# Hoặc: hash.each do |key, value|puts"#{key} is #{value}"end# Trả về {:water => 'wet',:fire => 'hot'} và xuất ra:# water is wet# fire is hothash.delete:water# Hủy cặp giá trị:water => 'wet' và trả về "wet"hash.delete_if{|key,value|value=='hot'}# Hủy cặp giá trị:fire => 'hot' và trả về {}
Cấu trúc rẽ nhánh
Mệnh đề If:
# Tạo ra một số ngẫu nhiên và in ra số đó là chẵn hay lẻ.ifrand(100)%2==0puts"Là số chẵn"elseputs"Là số lẻ"end
Block và iterator
2 cách để tạo một đoạn block:
{puts'Xin chào, thế giới!'}# lưu ý dấu ngoặc# hoặc:doputs'Xin chào, thế giới!'end
Một block có thể được truyền đến một hàm (method) như một tham số tùy chọn. Nhiều hàm được cài sẵn có tham số như vậy:
File.open('file.txt','w')do|file|# 'w' biểu thị "chế độ ghi chép"file.puts'Viết gì đó'end# Tập tin sẽ tự động đóng ở đâyFile.readlines('file.txt').eachdo|line|putslineend# => 'Viết gì đó'
Thông số đi qua block để trở thành closure (ví dụ):
# Trong một biến thể hiện đối tượng (biểu thị bằng '@'), hãy lưu block này.defremember(&p)@block=pend# Dùng hàm trên, cho block đó một cái tên.remember{|ten|puts"Xin chào, #{ten}!"}# Dùng closure (lưu ý rằng điều này không có áp dụng tự do cho các biến khác):!@block.call("Tèo")# Xuất ra "Xin chào, Tèo!"
Tạo ra một hàm ẩn danh:
proc{|arg|putsarg}Proc.new{|arg|putsarg}lambda{|arg|putsarg}->(arg){putsarg}# được giới thiệu ở Ruby 1.9
Trả về closure từ một hàm:
defcreate_set_and_get(initial_value=0)# Lưu ý initial_value là 0closure_value=initial_value[Proc.new{|x|closure_value=x},Proc.new{closure_value}]endsetter,getter=create_set_and_get# Trả về hai giá trịsetter.call(21)getter.call# => 21# Biến tham số cũng có thể được sử dụng như là một liên kết cho closure,# Vậy nên hàm trên có thể được viết lại như sau:defcreate_set_and_get(closure_value=0)[proc{|x|closure_value=x},proc{closure_value}]end
Trong một hàm, có thể thay đổi block vào lúc gọi hàm:
Đoạn mã sau định nghĩa một lớp tên là Person. Bên cạnh phương thức khởi tạo initialize, là phương thức được gọi đến khi cần tạo đối tượng mới, lớp này còn có 2 phương thức khác: một là ghi đè lên toán tử so sánh <=> (vì thế Array#sort có thể sắp xếp theo tuổi) và hai là là ghi đè lên phương thức to_s (vì thế Kernel#puts có thể định dạng đầu ra của nó). Ở đây, attr_accessor là một ví dụ của meta-programming trong Ruby: nó định nghĩa các phương thức dạng getter và setter của biến thực thể, trong khi attr_reader các phương thức dạng 'getter'. Và, câu lệnh cuối cùng trong một phương thức là giá trị trả về của nó, điều này cho phép bỏ qua lệnh return.
classPersonattr_reader:name,:agedefinitialize(name,age)@name,@age=name,ageenddef<=>(person)# Định nghĩa toán tử so sánh@age<=>person.ageenddefto_s"#{@name} (#{@age})"endendgroup=[Person.new("Bob",33),Person.new("Chris",16),Person.new("Ash",23)]putsgroup.sort.reverse
Đoạn mã trên in ra ba tên theo tuổi giảm dần:
Bob(33)Ash(23)Chris(16)
Ngoại lệ
Một trường hợp ngoại lệ được đưa ra với lệnh raise:
viết dòng này vào file hello.rb puts "chao The gioi"
và chạy thử
~>ruby hello.rb
Các kiểu dữ liệu
Cú pháp
Cú pháp trong Ruby tương tự như Perl and Python. Lớp và phương thức được định nghĩa thông qua các từ khóa, ngoài ra khối (block) còn có thể được định nghĩa bằng cặp dấu ngoặc nhọn {}. Khác với Perl, biến số (variable) không nhất thiết phải bắt đầu bằng dấu $, và nếu sử dụng sẽ thay đổi phạm vi của biến số. Các kí tự xuống dòng (line breaks) cũng như dấu chấm phẩy ; phân chia các mệnh đề (statement) với nhau.
Một trong những điểm khác biệt lớn nhất so với Perl và Python là Ruby ẩn hoàn toàn các biến của thực thể (instance) và chỉ có thể truy cập và chỉnh sửa chúng thông qua các phương thức (như attr_writer, attr_reader).
Các ứng dụng
Ruby Application Archive đóng vai trò là một kho lưu trữ đủ loại ứng dụng và các thư viện viết bằng Ruby, với hàng ngàn mục. Mặc dù số lượng ứng dụng sẵn có không lớn bằng với cộng đồng của Perl hay Python, vẫn có đủ loại công cụ và tiện ích nhằm hỗ trợ cho việc phát triển ngôn ngữ trong tương lai.
Tham khảo
^“Ruby 3.3.6 Released”. Ruby Programming Language. ngày 5 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2024.
^ abc
Cooper, Peter (2009). Beginning Ruby: From Novice to Professional. Beginning from Novice to Professional (ấn bản thứ 2). Berkeley: APress. tr. 101. ISBN1-4302-2363-4. To a lesser extent, Python, LISP, Eiffel, Ada, and C++ have also influenced Ruby.
^Burks, Tim. “About Nu™”. Programming Nu™. Neon Design Technology, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2011.
^Lattner, Chris (ngày 3 tháng 6 năm 2014). “Chris Lattner's Homepage”. Chris Lattner. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2014. The Swift language is the product of tireless effort from a team of language experts, documentation gurus, compiler optimization ninjas, and an incredibly important internal dogfooding group who provided feedback to help refine and battle-test ideas. Of course, it also greatly benefited from the experiences hard-won by many other languages in the field, drawing ideas from Objective-C, Rust, Haskell, Ruby, Python, C#, CLU, and far too many others to list.