Quân đoàn IV là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải – Lục – Không quân, là một trong bốn quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và là Quân đoàn được thành lập sau cùng. Đây là Quân đoàn có nhiệm vụ kiểm soát địa bàn gồm các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Vào giai đoạn cuối tháng 4 năm 1975, khi các Quân đoàn khác đã bị tan rã hoặc không còn sức chiến đấu thì lực lượng của Quân đoàn IV gần như vẫn còn khá nguyên vẹn. Chỉ huy Quân đoàn này đã lập ra "Kế hoạch mật khu", theo đó sẽ cố thủ vùng đồng bằng sông Cửu Long nếu Sài Gòn thất thủ, tuy nhiên kế hoạch này đã phá sản do phần lớn sỹ quan cấp dưới đã bỏ chạy, bộ máy chỉ huy đã rối loạn đến mức không thể điều khiển được các đơn vị dưới quyền. Quân đoàn đã buông súng sau khi có lệnh đầu hàng từ Tổng thống Dương Văn Minh. Một số sĩ quan của quân đoàn đã tự sát, trong đó có cả Tư lệnh và Tư lệnh phó Quân đoàn.
Lịch sử hình thành
Tiền thân của Vùng IV chiến thuật là Đệ ngũ Quân khu, được thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956[1]. Địa bàn của Đệ ngũ Quân khu bấy giờ gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên và Đặc khu Côn Sơn. Tuy nhiên, mãi đến ngày 14 tháng 2 năm 1957, Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng hòa mới ký Công vụ lệnh số 146/TTM/VP chỉ định Chỉ huy trưởng 3 Quân khu kể trên, gồm: Trung tướng Dương Văn Minh, Chỉ huy trưởng Quân khu Thủ đô; Đại tá Nguyễn Văn Y, Chỉ huy trưởng Đệ nhất quân khu; Đại tá Nguyễn Văn Là, Chỉ huy trưởng Đệ ngũ Quân khu. Trung tướng Dương Văn Minh đồng thời kiêm nhiệm chức Tư lệnh 3 quân khu trên.[2]
Ngày 1 tháng 6 năm 1961, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra sắc lệnh cải tổ các Quân khu thành các Vùng chiến thuật, theo đó Đệ nhất và Đệ ngũ Quân khu được sáp nhập để thành lập Vùng 3 chiến thuật[3]. Tỉnh Côn Sơn được tách ra, trực thuộc vào Bộ Tư lệnh Hải quân.[4]. Tuy nhiên, do lãnh thổ của Vùng 3 chiến thuật khi đó tương ứng với địa bàn rộng lớn của Nam Bộ, gây ra rất nhiều khó khăn trong kiểm soát địa bàn. Do nhu cầu cần có thêm các đơn vị chủ lực nữa để hỗ trợ và chia sẻ vùng hoạt động, Tổng thống Ngô Đình Diệm quyết định thành lập thêm Sư đoàn 9 vào ngày 1 tháng 1 năm 1962) và Sư đoàn 25 Bộ binh vào ngày 1 tháng 7 năm 1962. Như vậy, trên địa bàn của Đệ ngũ Quân khu cũ có các Sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 21 phụ trách.
Ngày 1 tháng 1 năm 1963, Tổng thống Diệm cho thành lập Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật từ phần lãnh thổ miền tây Nam phần, với nòng cốt là các Sư đoàn 7, 9 và 21. Đại bản doanh của Quân đoàn được đặt tại Cần Thơ và Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao làm Tư lệnh đầu tiên. Phần lãnh thổ trách nhiệm của Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật gồm 16 tỉnh và một Đặc khu thuộc miền tây Nam phần, tổ chức thành 3 Khu chiến thuật: Khu 41 chiến thuật (gồm các tỉnh Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình); Khu 42 chiến thuật (gồm các tỉnh Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên); Khu 43 chiến thuật (gồm các tỉnh Định Tường, Kiến Tường, Kiến Phong, Kiến Hòa, Gò Công). Ngoài ra, còn có Biệt khu 44 chiến thuật bán tự trị làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh khu vực tây bắc đồng bằng sông Cửu Long dọc biên giới Việt Nam–Campuchia (giải thể năm 1973). Riêng Đặc khu Phú Quốc trực thuộc vào Bộ Tư lệnh Hải quân. Mỗi khu chiến thuật là địa bàn hoạt động của một Sư đoàn.
Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, trực tiếp chỉ huy và điều động các đơn vị Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số từ một đến hai Trung đoàn bộ binh nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị chủ lực. Vì vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các sư đoàn chủ lực. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn.
Dưới đây là biên chế tổ chức của Quân đoàn III vào đầu năm 1975.
Bộ Tư lệnh:
Bộ Tham mưu Sở An ninh Quân đội Phòng 1 Tổng Quản trị Phòng 2 Tình báo
-Phòng 3 Tác chiến Bộ chỉ huy Tiếp vận Bộ chỉ huy Pháo binh Bộ tư lệnh Chiến đoàn đặc nhiệm
Đơn vị tác chiến trực thuộc:
Sư đoàn 7 Bộ binh: Trách nhiệm địa bàn các tỉnh Định Tường, Gò Công, Kiến Hòa, Kiến Tường và Sa Đéc Sư đoàn 9 Bộ binh: Trách nhiệm địa bàn các tỉnh An Giang, Châu Đốc, Kiến Phong, Vĩnh Bình và Vĩnh Long Sư đoàn 21 Bộ binh: Trách nhiệm địa bàn các tỉnh An Xuyên, Ba Xuyên, Bạc Liêu, Chương Thiện, Kiên Giang và Phong Dinh. Địa phương quân và Nghĩa quân[5]
Tiểu khu An Giang: Các Chi khu (Quận) Châu Thành, Chợ Mới, Huệ Đức, Thốt Nốt và Yếu khu Thị xã Long Xuyên Tiểu khu An Xuyên: Các Chi khu Đầm Dơi, Hải Yến, Năm Căn, Sông Đốc, Thới Bình và Yếu khu Thị xã Quản Long Tiểu khu Ba Xuyên: Các Chi khu Hòa Trị, Kế Sách, Lịch Hội, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm, Thạnh Trị, Thuận Hòa và Yếu khu Thị xã Khánh Hưng Tiểu khu Bạc Liêu: Các Chi khu Giá Rai, Phước Long, Vĩnh Châu, Vĩnh Hội và Yếu khu Thị xã Bạc Liêu Tiểu khu Châu Đốc: Các Chi khu An Phú, Châu Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn và Yếu khu Thị xã Châu Đốc Tiểu khu Chương Thiện: Các Chi khu Đức Long, Hưng Long, Kiên Long, Kiên Lương, Kiến Thiện, Long Mỹ và Yếu khu Thị xã Vị Thanh Tiểu khu Định Tường: Các Chi khu Bến Tranh, Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành, Chợ Gạo, Giáo Đức, Hậu Mỹ, Sầm Giang và Yếu khu Thị xã Mỹ Tho (1 Quận) Tiểu khu Gò Công: Các Chi khu Hòa Bình, Hòa Đồng, Hòa Lạc, Hòa Tân và Yếu khu Thị xã Gò Công Tiểu khu Kiên Giang: Các Chi khu Hà Tiên, Hiếu Lê, Kiên An, Kiên Bình, Kiên Lương, Kiên Tân, Kiên Thành và Yếu khu Thị xã Rạch Giá (Gồm 1 Quận) Tiểu khu Kiến Hòa: Các Chi khu Ba Tri, Bình Đại, Đôn Nhơn, Hàm Luông, Hương Mỹ, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú và Yếu khu Thị xã Trúc Giang Tiểu khu Kiến Phong: Các Chi khu Cao Lãnh, Đồng Tiến, Hồng Ngự, Kiến Văn, Mỹ An, Thanh Bình và Yếu khu Thị xã Cao Lãnh Tiểu khu Kiến Tường: Các Chi khu Châu Thành, Kiên Bình, Tuyên Bình, Tuyên Nhơn và Yếu khu Thị xã Mộc Hóa Tiểu khu Phong Dinh: Các Chi khu Châu Thành, Phong Điền, Phong Phú, Phong Thuận, Phụng Hiệp, Thuận Nhơn, Thuận Trung và Yếu khu Thị xã Cần Thơ (1 Quận) Tiểu khu Sa Đéc: Các Chi khu Đức Thành, Đức Thịnh, Đức Tôn, Lấp Vò và Yếu khu Thị xã Sa Đéc Tiểu khu Vĩnh Bình: Các Chi khu Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Long Toàn, Tiểu Cần, Trà Cú, Trà Ôn, Vũng Liêm và Yếu khu Thị xã Phú Vinh Tiểu khu Vĩnh Long: Các Chi khu Bình Minh, Châu Thành, Chợ Lách, Minh Đức, Tam Bình và Yếu khu Thị xã Vĩnh Long Đặc khu Phú Quốc: (Bao gồm quần đảo An Thới)
Bộ Tham mưu và Phòng Sở của Quân đoàn IV tháng 4/1975
^Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân: Mỗi Tiểu khu (tỉnh) có từ 3 đến 5 Tiểu đoàn Địa phương quân, mỗi Chi khu (quận) có từ 10 đến 15 Trung đội Nghĩa 1uaan.
^Đại tá Liêu Quang Nghĩa sinh năm 1933 tại Cần Thơ.
^Đại tá Nguyễn Ngọc Điệp sinh năm 1923 tại Sa Đéc.
^Đại tá Nguyễn Đăng Phương sinh năm 1928 tại Sa Đéc.
^Đại tá Hồ Ngọc Cẩn sinh năm 1938 tại Rạch Giá. Ngày 14/8/1975 bị Chính quyền Cách mạng (Quân Giải phóng miền Nam VN) xử tử hình tại sận Vận động Cần Thơ.
^Thị xã Mỹ Tho trực thuộc Trung ương. Tỉnh trưởng Định Tường kiêm Thị trưởng Thị xã Mỹ Tho
^Đại tá Vương Văn Trổ sinh năm 1939 tại Long Xuyên. Hạ tuần tháng 4 năm 1975, đã có quyết định thăng cấp Đại tá, nhưng chưa nhận được quyết định thì xảy ra biến cố 30/4/1975
^Thị xã Rạch Giá trực thuộc Trung ương. Tỉnh trưởng Kiên Giang kiêm Thị trưởng Thị xã Rạch Giá