Pisco sour là món cocktail có cồn bắt nguồn từ Peru, đặc trưng trong ẩm thực Peru và Chile. Món thức uống này được đặt tên theo từ pisco, là rượu nền dùng pha chế, kèm thuật ngữ sour (vị chua), là công thức pha chế gồm có nước cốt chanh chua và thành phần chất tạo ngọt. Công thức pha chế pisco sour kiểu Peru sử dụng pisco làm rượu nền và thêm nước chanh vắt tươi, siro đường, đá viên, lòng trắng trứng và rượu đắng Angostura. Phiên bản Chile cũng tương tự, nhưng lại dùng pisco và quả chanh Pica của Chile để pha chế, không pha rượu đắng và lòng trắng trứng. Các biến thể khác của món cocktail này gồm nhiều kiểu pha chế với trái cây như dứa hoặc thực vật như lá coca.
Mặc dù pha chế đồ uống hỗn hợp bằng pisco có khả năng khởi đầu từ thập niên 1700 nhưng các sử gia và chuyên gia đồ uống đều đồng tình rằng món pisco sour ngày nay là do ông Victor Vaughen Morris, người Mỹ, phát minh vào đầu thập niên 1920 tại Lima, thủ đô Peru.[2] Morris rời Hoa Kỳ năm 1903 đến làm việc tại thành phố Cerro de Pasco, miền trung Peru. Năm 1916, ông khai trương quán Morris' Bar ở Lima. Quán của ông nhanh chóng trở thành địa điểm nổi tiếng dành cho tầng lớp thượng lưu Peru và người nước ngoài nói tiếng Anh. Pisco sour đã trải qua vài thay đổi đến khi Mario Bruiget, một bartender người Peru làm việc tại quán Morris' Bar, tạo nên công thức pha cocktail Peru hiện đại vào cuối thập niên 1920 bằng cách thêm rượu đắng Angostura cùng lòng trắng trứng vào hỗn hợp.
Tại Chile, nhà văn hóa dân gian Oreste Plath kết luận người phát minh món uống này là Elliot Stubb, một quản lý bếp người Anh trên con thuyền Sunshine. Năm 1872, Elliot Stubb đã trộn nước cốt chanh, siro và đá viên để tạo nên món cocktail trong quán bar tại thành phố cảng Iquique, vào thời điểm thuộc chủ quyền Peru. Bất chấp điều đó, theo nguồn tin ban đầu được Plath trích dẫn cho rằng Stubb đã phát minh ra whiskey sour - không phải pisco sour. Thông tin đề cập đến pisco sour cũ nhất được đăng trên một tạp chí từ năm 1921 cho rằng Morris mới chính là người phát minh. Năm 1924, mẩu quảng cáo giới thiệu quán Morris' Bar cũng đề cập đến món này, xuất bản trên một tờ báo ở thành phố cảng Valparaíso, Chile.
Thực khách sành uống cocktail xem pisco sour là món uống cổ điển trong ẩm thực Nam Mỹ.[a] Pisco sour được xem là quốc tửu của cả hai nước Peru và Chile.[5][6][7][8][9] Mỗi bên đều khẳng định quyền sở hữu loại rượu nền pha chế cocktail — pisco.[b] Do vậy, pisco sour trở thành chủ đề quan trọng và gây tranh cãi về văn hóa đại chúng Mỹ Latinh. Hai loại pisco và hai biến thể trong phong cách chế biến pisco sour có sự khác biệt cả về cách sản xuất lẫn hương vị. Hàng năm, Peru kỷ niệm một ngày lễ quốc gia nhằm tôn vinh món cocktail này vào ngày thứ bảy đầu tiên của tháng hai.
Tên gọi
Thuật ngữ sour dùng để đề cập đến cách pha trộn thức uống chứa gồm rượu nền (rượu whiskey ngô hoặc vài loại whiskey khác), nước cốt chanh và chất tạo ngọt.[11] Từ ngữ pisco đề cập đến loại rượu nền dùng để pha chế cocktail. Từ ngữ áp dụng cho đồ uống có cồn này khởi nguồn tại thành phố cảng Pisco, Peru. Trong cuốn sách Mỹ Latinh và biển Caribe, nhà sử học Olwyn Blouet và nhà địa lý chính trị Brian Blouet đã mô tả rằng ngành trồng vườn nho phát triển vào thời kỳ đầu thuộc địa Peru và nửa sau thế kỷ XVI. Thị trường rượu hình thành do nhu cầu từ các khu định cư gia tăng trên dãy Andes. Về sau, nhu cầu về rượu mạnh đã khiến thành phố Pisco và Ica lân cận thành lập nhiều nhà máy chưng cất "để chế biến rượu vang thành rượu brandy".[12] Rượu thành phẩm được đặt tên theo thành phố cảng, nơi chưng cất và xuất khẩu rượu.[13][14]
Những cây nho đầu tiên du nhập đến Peru không lâu sau khi người Tây Ban Nha chinh phục Đế quốc Inca vào thế kỷ 16. Các nhà biên niên sử Tây Ban Nha từ thời kỳ này ghi nhận hoạt động sản xuất rượu vang đầu tiên ở Nam Mỹ diễn ra tại khu đồn điền Marcahuasi ở thành phố Cuzco.[15] Vào thế kỷ 16 và 17, những vườn nho lớn nhất và nổi bật nhất tại châu Mỹ được thành lập ở thung lũng Ica, trung nam Peru.[16][17] Vào thập niên 1540, Bartolomé de Terrazas và Francisco de Carabantes đã trồng nhiều vườn nho ở Peru.[18] Carabantes cũng lập nên vườn nho ở Ica, từ đó người Tây Ban Nha đến từ Andalucia và Extremadura đã đưa cây nho vào Chile.[18][19]
Ngay từ thế kỷ 16, người Tây Ban Nha định cư ở Chile và Peru đã bắt đầu sản xuất rượu aguardiente[19][20] được chưng cất từ nho lên men.[21] Ít nhất là từ năm 1764, rượu aguardiente ở Peru được đặt tên "pisco" dựa theo tên cảng biển vận chuyển.[16][17] Cách dùng tên gọi "pisco" cho rượu aguardiente về sau lan truyền đến Chile.[c] Cấp phép sản xuất và thị trường tiêu thụ pisco, hiện vẫn được sản xuất tại Peru và Chile, là chủ đề tranh chấp đang diễn ra giữa hai nước.[22]
Theo nhà sử học Luciano Revoredo, cách pha chế dùng rượu pisco với nước chanh có từ thế kỷ 18. Ông căn cứ tuyên bố của mình dựa theo nguồn tin truy xuất từ tờ báo Mercurio Peruano viết chi tiết về lệnh cấm đồ uống có cồn ở Plaza de toros de Acho tại Lima, trường đấu bò lâu đời nhất châu Mỹ. Vào thời điểm này, các nô lệ buôn bán một thức uống được đặt tên Punche. Revoredo lập luận rằng món uống này là tiền thân của pisco punch ở California, một món uống do Duncan Nicol phát minh tại quán Bank Exchange Saloon ở San Francisco, California.[23] Nhà nghiên cứu Nico Vera đã tìm ra công thức pha chế món punch bằng cách dùng rượu pisco, bao gồm cả lòng trắng trứng, trong sách nấu ăn Manual de Cocina a la Criolla năm 1903. Vì vậy, chuyên gia ẩm thực Duggan McDonnell cho rằng "punche hoàn toàn có khả năng là một loại 'Cocktail', dần biến thể thành pisco sour, [...] được lưu truyền khoảng một thời gian ở Lima trước khi đưa vào sách nấu ăn."[24]
Nguồn gốc
Pisco sour có nguồn gốc từ Lima, Peru.[2] Món đồ uống này do ông Victor Vaughen Morris tạo ra. Ông là một người Mỹ di cư đến Peru năm 1904 để làm việc cho một công ty đường sắt ở Cerro de Pasco.[25] Morris chuyển đến Lima năm 1915. Một năm sau đó, ông khai trương quán - Morris' Bar - trở thành nơi phổ biến với cả tầng lớp thượng lưu Peru lẫn người nước ngoài nói tiếng Anh.[25][26] Nhà sử học Chile Gonzalo Vial Correa cũng cho rằng người phát minh món pisco sour là một Gringo (biệt hiệu của người ngoại quốc gốc Mỹ) tên Morris tại quán Morris' Bar nhưng có chút khác biệt nhỏ khi ông gắn tên nhân vật là William Morris.[27] Morris thường thử nghiệm món uống mới và phát triển ra pisco sour như một biến thể của whiskey sour. [1]
Có vài điều không thống nhất rằng đâu là thời điểm chính xác lúc Morris tạo nên món cocktail nổi tiếng này. Nhà pha chế Dale DeGroff khẳng định món uống này được phát minh năm 1915[28] nhưng nguồn khác lại chỉ ra vào thập niên 1920.[29] Trang báo trực tuyến El Mercurio của Chile khẳng định cụ thể rằng giới sử học kết luận năm phát minh ra pisco sour là 1922. Trang báo viết thêm: "một đêm nọ, Morris khiến bạn bè mình ngạc nhiên với món uống mới mà ông gọi là pisco sour, dùng công thức pha trộn giữa rượu pisco Peru với cocktail sour của Mỹ" (viết bằng tiếng Tây Ban Nha: "Una noche Morris sorprendió a sus amigos con una nueva bebida a la que llamó pisco sour, una fórmula que funde lo peruano del pisco con el 'sour' estadounidense.").[30]
Công thức ban đầu dùng pha chế pisco sour là một loại cocktail đơn giản.[31] Theo nhà nghiên cứu người Peru Guillermo Toro-Lira, "thừa nhận rằng đó là hỗn hợp thô khi pha rượu pisco với nước chanh và đường, cũng như whiskey sour ngày đó."[32] Khi công thức pha cocktail tiếp tục phát triển, danh sách đặt lịch quán bar cho biết thực khách nhận xét rằng hương vị đồ uống được cải thiện liên tục.[32] Phiên bản Peru hiện đại của công thức này được Mario Bruiget phát triển, một người Peru quê ở Chincha Alta. Bruiget được Morris chỉ dạy học nghề bắt đầu từ ngày 16 tháng 7, 1924. Công thức của Bruiget cho thêm rượu đắng Angostura và lòng trắng trứng vào hỗn hợp.[25] Nhà báo Erica Duecy viết rằng kiểu đổi mới của Bruiget cho thêm "kết cấu lỏng mịn và lớp trên cùng sủi bọt" vào ly cocktail.[31]
Morris sử dụng quảng cáo để giới thiệu quán bar và phát minh của ông. Đề cập cũ nhất về pisco sour xuất hiện trên ấn bản tháng 9, 1920 của tạp chí Hogar, Peru.[33] Một quảng cáo cũ khác cũng xuất hiện trên ấn bản 22 tháng 4, 1921 của tạp chí Mundial, Peru. Trên tạp chí, không chỉ mô tả pisco sour là thứ thức uống màu trắng, mà còn cho rằng người phát minh là "Quý ông Morris".[34] Sau đó, năm 1924, Morris nhờ có người bạn Nelson Rounsevell trợ giúp nên quán bar của ông đã quảng bá được địa điểm và phát minh của mình tại Valparaíso, Chile. Quảng cáo đăng trên báo South Pacific Mail, do Rounsevell sở hữu, tại Valparaíso.[32] Đến năm 1927, Morris' Bar trở nên nổi tiếng với các món cocktail, đặc biệt là pisco sour. Brad Thomas Parsons viết rằng "danh sách đặt lịch quán Morris' Bar nhận nhiều lời khen tốt từ du khách say mê món thức uống tiêu biểu này".[25][35]
Theo thời gian, các quán bar gần đó cạnh tranh cộng thêm sức khỏe của Victor Morris ngày càng giảm sút đã khiến doanh nghiệp của ông suy tàn và sụp đổ. Trong thời gian này, do tình trạng tồi tệ của mình, Morris đã giao phần lớn công việc pha chế cho nhân viên. Cộng thêm vấn đề đối thủ cạnh tranh gần đó, ví dụ Gran Hotel Bolívar và Hotel Lima Country Club, các khách sạn kiêm quán bar đã khiến khách hàng ngày càng rời xa Morris' Bar. Hơn thế, Toro-Lira phát hiện ra Morris đã buộc tội bốn nhân viên pha chế cũ về hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ sau khi họ nghỉ việc rồi đến làm tại một trong số các quán bar cạnh tranh.[32] Năm 1929, Morris tuyên bố phá sản tự nguyện và đóng cửa quán bar. Vài tháng sau, ngày 11 tháng 6, Victor Vaughen Morris qua đời vì bệnh xơ gan.[25][32]
Lưu truyền
Sử gia Luis Alberto Sánchez viết rằng, sau khi Morris đóng cửa quán bar, một số nhân viên pha chế của quán nghỉ việc rồi đến làm tại quán khác.[25] Bruiget bắt đầu đi làm pha chế cho khách sạn Grand Hotel Maury gần đó, nơi ông tiếp tục phục vụ công thức pha pisco sour của mình. Bruiget đã thành công với món uống này. Điều này khiến cho người Lima địa phương truyền miệng niềm tin cho rằng Hotel Maury là nơi khởi nguồn của công thức pha pisco sour.[25] Các cựu nhân viên khác của Morris' Bar khi tìm được việc làm ở nơi khác, họ cũng truyền bá công thức pha pisco sour.[34] Xuyên suốt thập niên 1930, món uống này được đưa đến California, đến các quán bar xa về phía bắc như tại San Francisco.[1] Ít nhất đến cuối thập niên 1960, món cocktail này cũng đã đến được New York.[36]
Beatriz Jiménez, một nhà báo của tờ El Mundo (Tây Ban Nha), chỉ ra rằng tại Peru, các khách sạn hạng sang ở Lima sử dụng món pisco sour như sở hữu riêng họ vào những năm 1940.[37] Dầu mỏ dồi dào đã thu hút người nước ngoài chú ý đến Peru vào thập niên 1940 - 1950. Trong số du khách đến Lima, có những diễn viên nổi tiếng Hollywood đã bị món pisco sour mê hoặc.[30][38] Jiménez nhớ lại câu chuyện truyền miệng rằng Ava Gardner lúc say khướt đã phải nhờ vả John Wayne dìu về sau khi uống quá nhiều pisco sour. Ernest Hemingway và Orson Welles được cho là rất yêu thích thứ mà họ mô tả như "thức uống của người Peru".[37]
Năm 1984, nhà báo người Bolivia, Ted Córdova Claure viết rằng Gran Hotel Bolívar đứng vững như tượng đài cho sự suy đồi của chính thể đầu sỏ Peru (viết tiếng Tây Ban Nha: "Este hotel es unumento a la decadencia de la oligarquía peruana."). Ông lưu ý rằng địa điểm này tựa như quê hương cổ truyền của pisco sour và đề cử nó trở thành một trong những khách sạn hàng đầu tại Lima.[39] Đến ngày nay, Gran Hotel Bolívar tiếp tục chào mời món pisco sour tại quầy bar trực thuộc.[40] Trong khi đó, Country Club Lima Hotel bán món uống này tại quán "English Bar".[41]
Tranh chấp quốc tịch
Victor Vaughen Morris được hầu hết các nhà sử học xem là người phát minh ra món cocktail này.[31] Mặc dù vậy, vẫn tồn tại tranh chấp giữa Chile và Peru về nguồn gốc của pisco sour.[42] Tại Chile, một câu chuyện địa phương kể lại vào thập niên 1980 rằng Elliot Stubb đã phát minh ra pisco sour. Stubb là một quản lý bếp người Anh trên con thuyền buồmSunshine. Nhà sử học và văn học dân gian Chile, Oreste Plath đã góp phần truyền bá huyền thoại bằng cách viết rằng: dựa theo tờ báo El Comercio de Iquique của Peru, năm 1872, sau khi được quyền rời tàu lên đất liền, Stubb đã mở quán bar tại cảng Iquique thuộc Peru và phát minh ra pisco sour trong lúc thử nghiệm đồ uống.[32][43][e]
Tuy thế, nhà nghiên cứu Toro-Lira lập luận rằng câu chuyện trên bị bác bỏ sau khi người ta phát hiện ra El Comercio de Iquique thực sự chỉ đề cập đến phát minh ra món whiskey sour.[32] Tuyên bố này được Đại học Cuyo, Argentina dẫn chứng thêm: năm 1962, câu chuyện về Elliot Stubb được công bố và phát minh được chứng thực thuộc về whiskey sour tại Iquique. Một trích đoạn trong câu chuyện đăng trên báo kể về Elliot Stubb rằng, "Từ bây giờ ... đây sẽ là thức uống chiến đấu của tôi, thức uống yêu thích của tôi và nó sẽ được đặt tên là whiskey sour" (tiếng Tây Ban Nha: "En adelante dijo Elliot — éste será mi trago de batalla, — mi trago favorito —, y se llamará Whisky Sour.").[44]
Cách pha chế và biến thể
Pisco sour có ba cách pha chế khác nhau. Cocktail pisco sour kiểu Peru được pha bằng cách hòa rượu pisco Peru vào nước chanh vỏ xanh, siro đường, lòng trắng trứng, rượu đắng Angostura (để trang trí) và đá viên.[1] Cocktail pisco sour kiểu Chile được pha bằng cách hòa rượu pisco Chile vào nước chanh Pica, đường bột và đá viên.[45] Daniel Joelson, một nhà văn và phê bình ẩm thực, cho rằng khác biệt chính giữa hai phiên bản pisco sour "là người Peru thường pha cùng lòng trắng trứng, trong khi người Chile thì không."[46] Phiên bản từ Hiệp hội Bartender Quốc tế, liệt kê pisco sour nằm trong số "Thức uống Tân Kỷ nguyên", tương tự như phiên bản Peru, nhưng có khác biệt là sử dụng nước chanh vỏ vàng, thay vì nước chanh vỏ xanh và không phân biệt giữa hai loại pisco khác nhau.[47]
Các kiểu biến thể đáng chú ý vẫn hiện diện, dùng để pha chế cocktail. Theo chuyên gia thực phẩm - rượu vang, Mark Spivak, khác biệt nằm ở cách sản xuất hai loại đồ uống. Trong khi "rượu pisco Chile được sản xuất hàng loạt" thì phiên bản Peru "được sản xuất theo lô nhỏ."[48] Nhà sử học về cocktail, Andrew Bohrer, tập trung so sánh về hương vị, tuyên bố rằng "ở Peru, rượu pisco vẫn được ủ bằng nồi, chưng cất đến nồng độ chuẩn và không để lâu; nó tương tự như rượu grappa. Ở Chile, rượu pisco vẫn được ủ trong ống và để lâu trong gỗ; nó tương tự như rượu cognac nồng độ rất yếu."[49] Nhà nghiên cứu rượu nho người Chile, Patricio Tapia cho biết thêm: trong khi ngành sản xuất rượu pisco tại Chile thường hòa trộn các loại nho vào nhau; thì ngành sản xuất rượu tại Peru có nhiều loại pisco riêng biệt dựa theo chất lượng hương nho như nho Muscat vàng và nho Ý. Tapia kết luận đây là lý do tại sao trên chai pisco Peru hiển thị năm hái nho ủ rượu còn phiên bản Chile thì không.[50]
Các biến thể của pisco sour hiện diện ở Peru, Bolivia và Chile. Có nhiều kiểu pha chế cocktail ở Peru sử dụng trái cây như chanh leo, tầm bóp và táo, hoặc nguyên liệu truyền thống như lá coca.[51] Ở Chile, các biến thể gồm có Ají sour (với ớt xanh cay), Mango sour (với nước ép xoài) và Sour de Campo (với gừng và mật ong). Ở Bolivia, kiểu biến thể Yunqueño (tại vùng Yungas) thay thế nước chanh bằng nước cam vắt.[52]
Các món cocktail tương tự như pisco sour gồm có Piscola của Chile và Algarrobina của Peru. Piscola được pha bằng cách hòa trộn rượu pisco với cola.[45] Algarrobina được pha chế bằng rượu pisco, sữa đặc và nhựa cây algarroba của Peru.[53] Tại Hoa Kỳ, một món cocktail tương tự khác là pisco punch ở California, theo nguyên thủy được pha bằng rượu pisco Peru, dứa và chanh.[54]
Phổ biến đại chúng
Duggan McDonnell mô tả pisco sour là "loại cocktail thanh lịch nhất Mỹ Latinh, sủi bọt, cân bằng, tươi sáng nhưng đậm đà". Ông nói thêm rằng "Các chủ quán bar trên khắp Bắc California sẽ chứng thực rằng họ đã lắc nhiều ly pisco sour. Đó là món cocktail lòng trắng trứng chọn lọc và là món được yêu thích tuyệt đối nhất."[55] Nhà báo người Úc, Kate Schneider viết rằng pisco sour "trở nên nổi tiếng đến mức có lễ kỷ niệm Ngày pisco sour Quốc tế vào thứ Bảy đầu tiên của tháng Hai hàng năm, cũng như có cả trang Facebook với hơn 600.000 lượt thích."[56] Theo doanh nhân người Chile, Rolando Hinrichs Oyarce, chủ một nhà hàng-quán bar ở Tây Ban Nha, cho rằng "pisco sour có tính quốc tế cao, giống món ăn ceviche, do đó chúng không quá xa lạ" (tiếng Tây Ban Nha: "El pisco sour es bastante internacional, al igual que el cebiche, por lo tanto no son tan desconocidos").[57] Năm 2003, Peru lập nên "Día Nacional del pisco sour" (Ngày pisco sour Quốc gia), ngày lễ chính thức toàn quốc được tổ chức vào thứ Bảy đầu tiên của tháng Hai.[58][f]
Trong Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tếAPEC 2008, Peru đã quảng bá món pisco sour với sự đón nhận rộng rãi. Cocktail được xem là thức uống ưa thích của các bên tham dự, chủ yếu là các lãnh đạo, doanh nhân và đại biểu.[61]Đầu bếp sự kiện người Mỹ, Anthony Bourdain cũng thu hút sự chú ý đến món cocktail. Trong một tập của chương trình No Reservations trên kênh Travel Channel, ông đã uống một ly pisco sour ở Valparaíso, Chile và nhận định "thật tuyệt vời, nhưng... lần sau, tôi sẽ uống bia." Phát thanh viên trên đài Radio Programas del Perú đưa tin Jorge López Sotomayor, người Chile, là nhà sản xuất tập phim kiêm đồng hành chuyến đi của Bourdain ở Chile, cho biết "Bourdain cảm nhận pisco sour mà ông uống ở Valparaíso khá tẻ nhạt và vô bổ" (tiếng Tây Ban Nha: "A mí me dijo que el pisco sour lo encontró aburrido y que no valía la pena."). Lopez cho biết thêm Bourdain gần đây đã đến Peru, nơi ông ta uống vài ly pisco sour và cho rằng có vị ngon hơn phiên bản Chile.[62]
Tại Mexico, ca - nhạc sĩ Aleks Syntek hài hước đăng trên Twitter rằng pisco sour thuộc về Chile. Sau khi nhận phải nhiều phản hồi chỉ trích về tuyên bố này, ông đã xin lỗi và bảo rằng mình chỉ nói đùa.[63] MC truyền hình kiêm diễn viên hài người Mexico, Adal Ramones cũng phát ngôn đùa giỡn về món pisco sour, liên quan đến vụ bê bối gián điệp Chile-Peru 2009, ngày 17 tháng 11 năm 2009. Ramones, một người thích uống pisco Peru, khi được hỏi về vụ gián điệp rằng "người Chile đang do thám gì ở Peru?", ông gợi ý "đó có thể là cách thức pha chế một ly pisco sour" (tiếng Tây Ban Nha: "¿Qué quieren espiar los chilenos? ¿Cómo hacer pisco sour?").[64]
^Mặc dù pisco sour chủ yếu là đặc trưng tiêu biểu dọc theo vùng ven biển Thái Bình Dương của Peru và Chile, Casey gọi đây là "món đồ uống Nam Mỹ cổ điển" và Bovis bảo rằng đây là "cocktail Nam Mỹ tiêu chuẩn."[3][4]
^Peru cho rằng tên "pisco" là biểu thị địa lý độc quyền của loại rượu aguardiente sản xuất tại các vùng được chỉ định trên lãnh thổ của mình.[10] Chile cũng có khu vực sản xuất pisco được chỉ định trên lãnh thổ của mình, nhưng tuyên bố độc quyền về loại rượu này dưới tên "Pisco Chile".[10]
^Ở Chile thời thuộc địa, từ ngữ pisco chủ yếu được tầng lớp xã hội thấp sử dụng và hiếm khi xuất hiện trong văn nói của tầng lớp thượng lưu của thời kỳ này.[19]
^Hình ảnh có nội dung: "Bạn đã đặt lịch tại Morris' Bar LIMA chưa? Bạn sẽ tìm ra tên và địa chỉ khá nhiều bạn bè của mình trong danh sách đặt lịch này. Tất cả người nói tiếng Anh sống tại đây hoặc người đến Lima được sắp xếp miễn phí. MORRIS 'BAR tại CALLE BOZA, 836, LIMA, Peru, được chú ý qua nhiều năm nhờ món "pisco sour" và nổi tiếng nhờ "Rượu Chính thống." Danh sách đặt lịch Bar trở thành một nguồn dữ liệu "Ai của ai" thực sự trong mắt du khách Bờ Tây và nhiều bạn bè được tìm ra thông qua thông tin trên các trang đặt lịch."
^Ngày lễ "Día Nacional del pisco sour" ban đầu được lập nên để kỷ niệm vào ngày 8 tháng 2.[58] Tuy nhiên, sau khi ngành công nghiệp Pisco của Chile được tổ chức phi chính phủ tài trợ đã lập nên "Día de la Piscola" (Ngày Piscola) cũng vào ngày 8 tháng 2,[59][60] Peru phản ứng bằng cách thay đổi ngày lễ pisco sour thành ngày tháng hiện tại.[58]
^ abLacoste, Pablo (2004). “La vid y el vino en América del Sur: El desplazamiento de los polos vitivinícolas (siglos XVI al XX)” [The vine and wine in South America: The shifting of the winemaking poles (XVI to XX)]. Universum (bằng tiếng Tây Ban Nha). 19 (2): 62–93. doi:10.4067/S0718-23762004000200005.
^ abcCortés Olivares, Hernán F (2005). “El origen, producción y comercio del pisco chileno, 1546–1931” [The origin, production and trade of Chilean pisco, 1546–1931]. Universum (bằng tiếng Tây Ban Nha). 20 (2): 42–81. doi:10.4067/S0718-23762005000200005.
^Huertas Vallejos, Lorenzo (2004). “Historia de la producción de vinos y piscos en el Perú” [History of the production of wine and pisco in Peru]. Universum (bằng tiếng Tây Ban Nha). 19 (2): 44–61. doi:10.4067/S0718-23762004000200004.
^Real Academia Española. “Aguardiente”. Diccionario de la Lengua Española (bằng tiếng Tây Ban Nha) . Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2015.
^Pilar Lazo Rivera, Carmen del (2009). “pisco sour del Perú”(PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Pediatraperu.org. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2015.
^ abColoma Porcari, César (2005). “La Verdadera Historia del pisco sour”. Revista Cultural de Lima (bằng tiếng Tây Ban Nha). tr. 72–73. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2015.
^ abJiménez, Beatriz (ngày 6 tháng 2 năm 2011). “La Fiesta del pisco sour”. El Mundo (bằng tiếng Tây Ban Nha). Tây Ban Nha. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2015.
^Joelson, Daniel (Winter 2004). “The Pisco Wars”. Gastronomica: The Journal of Food and Culture. 4 (1): 6–8. doi:10.1525/gfc.2004.4.1.1.
^“New Era Drinks”. IBA-World.com. International Bartenders Association. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2015.
^Spivak, Mark. “Pour – Pisco Fever”. PalmBeachIllustrated.com. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2015.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
^Alías, Marina (ngày 9 tháng 4 năm 2006). “Sours chilenos irrumpen en barrio mítico de Madrid”. El Mercurio, Revista del Domingo (bằng tiếng Tây Ban Nha). Santiago.
^ abc“Chile Celebra Hoy el Día de la Piscola”. El Comercio (bằng tiếng Tây Ban Nha). Empresa Editora El Comercio. ngày 8 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2015.
Albala, Ken, ed. (2011). Food Cultures of the World Encyclopedia. Santa Barbara, California, Hoa Kỳ: ABC-CLIO. ISBN978-0-313-37627-6.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
Vial Correa, Gonzalo (1981). Historia de Chile, 1891–1973: La Dictadura de Ibáñez, 1925–1931 (bằng tiếng Tây Ban Nha). Santiago, Chile: Editorial Santillana del Pacífico. ISBN956-12-1201-3.
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Pisco sour.
Cristian Chivu Chivu bermain untuk Romania di Agustus 2010Informasi pribadiNama lengkap Cristian Eugen ChivuTanggal lahir 26 Oktober 1980 (umur 43)Tempat lahir Reșița, RomaniaTinggi 1,84 m (6 ft 1⁄2 in)Posisi bermain BekKarier senior*Tahun Tim Tampil (Gol)1996–1998 Reșița 24 (2)1998–1999 Universitatea Craiova 32 (3)1999–2003 Ajax 107 (13)2003–2007 AS Roma 85 (6)2007–2014 Inter Milan 115 (3)Total 363 (27)Tim nasional1997–1998 Rumania U-19 12 (1)1998�...
Questa voce o sezione sull'argomento edizioni di competizioni calcistiche non cita le fonti necessarie o quelle presenti sono insufficienti. Puoi migliorare questa voce aggiungendo citazioni da fonti attendibili secondo le linee guida sull'uso delle fonti. Segui i suggerimenti del progetto di riferimento. Serie C2 1996-1997 Competizione Serie C2 Sport Calcio Edizione 19ª Organizzatore Lega Professionisti Serie C Date dal 1º settembre 1996al 15 giugno 1997 Luogo Italia Partecip...
1955 musical Pipe DreamOriginal Broadway poster (1955)MusicRichard RodgersLyricsOscar Hammerstein IIBookOscar Hammerstein IIBasisSweet Thursday, a novel by John SteinbeckProductions1955 Broadway Pipe Dream is the seventh musical by the team of Richard Rodgers and Oscar Hammerstein II; it premiered on Broadway on November 30, 1955. The work is based on John Steinbeck's novel Sweet Thursday—Steinbeck wrote the novel, a sequel to Cannery Row, in the hope of having it adapted into a musical. Se...
The official opposition in India includes the Leader of the Opposition in Lok Sabha, the Leader of the Opposition in Rajya Sabha and the current opposition leaders in the legislative assemblies and legislative councils of the Indian states and union territories. Parliament of India This is the list of current opposition leaders in the Parliament of India: House Portrait Name Party Lok Sabha Vacant(no opposition with at least 10% seats) Rajya Sabha Mallikarjun Kharge Indian National Congress ...
Month of 1979 1979 January February March April May June July August September October November December << September 1979 >> Su Mo Tu We Th Fr Sa 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 September 1, 1979: Pioneer 11 becomes the first Earth spacecraft to visit the planet Saturn September 30, 1979: The U.S. Canal Zone territory of Panama goes out of existence September 7, 1979: The Entertainment and Sports Programming Network...
Restored 13th-century building in England Medieval Merchant's HouseTypeTimber-framedLocation58 French Street, SouthamptonCoordinates50°53′55″N 1°24′19″W / 50.8985°N 1.4052°W / 50.8985; -1.4052OS grid referenceSU 41917 11180AreaHampshireBuilt1290OwnerEnglish Heritage Listed Building – Grade IOfficial nameMedieval Merchant's HouseDesignated14 July 1953Reference no.1092048 Location of Medieval Merchant's House in Southampton The Medieval Merchan...
Erinaceidae[1]Rentang fosil: Eocene–Recent PreЄ Є O S D C P T J K Pg N Erinaceus europaeus Klasifikasi ilmiah Kerajaan: Animalia Filum: Chordata Kelas: Mammalia Infrakelas: Eutheria Superordo: Laurasiatheria Ordo: Eulipotyphla Famili: ErinaceidaeG. Fischer, 1814 Upafamilia & Genera †Silvacola Erinaceinae †Amphechinus Atelerix Erinaceus Hemiechinus Mesechinus Paraechinus Galericinae †Deinogalerix Echinosorex Hylomys Neohylomys Neotetracus Podogymnura Erinaceidae adalah f...
Chairperson of the Democratic National Committee since 2021 For the English cricketer, see Jamie Harrison. Jaime HarrisonHarrison in 2019Chair of the Democratic National CommitteeIncumbentAssumed office January 21, 2021Vice ChairsGretchen WhitmerTammy DuckworthKen MartinHenry R. Muñoz IIIPreceded byTom PerezChair of the South Carolina Democratic PartyIn officeMay 4, 2013 – April 29, 2017Preceded byDick HarpootlianSucceeded byTrav Robertson Personal detailsBorn (1976-02-05) Feb...
This article relies excessively on references to primary sources. Please improve this article by adding secondary or tertiary sources. Find sources: Yes and Also Yes – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (July 2016) (Learn how and when to remove this message) 2011 studio album by Mike DoughtyYes and Also YesStudio album by Mike DoughtyReleasedAugust 30, 2011GenreRockLength38:21LabelSNACK BAR RecordsProducerPat DillettMike Doughty chrono...
Species of eagle For other uses, see Golden Eagle (disambiguation). Golden eagleTemporal range: Pliocene–recent[1] PreꞒ Ꞓ O S D C P T J K Pg N Wild golden in flight at Pfyn-Finges, Switzerland. Call of a golden eagle in Scotland Conservation status Least Concern (IUCN 3.1)[2] CITES Appendix II (CITES)[3] Scientific classification Domain: Eukaryota Kingdom: Animalia Phylum: Chordata Class: Aves Order: Accipitriformes Family: Accipitridae Genus: Aquila S...
American playwright and director David AuburnBorn (1969-11-30) November 30, 1969 (age 54)Chicago, Illinois, U.S.OccupationPlaywright, screenwriter, theatre directorEducationUniversity of Chicago (BA)Juilliard School (GrDip)Children2 David Auburn (born 30 November 1969)[1] is an American playwright, screenwriter and theatre director. He is best known for his 2000 play Proof, which won the 2001 Tony Award for Best Play and Pulitzer Prize for Drama. He also wrote the screenplays for...
1815–1954 Dutch colony in the Caribbean Colony of Curaçao and DependenciesCuraçao en onderhorigheden (Dutch)Kòrsou y dependenshianan (Papiamento)1634–1954 Flag Coat of arms Map of the Caribbean, 1893. Aruba, Curaçao and Bonaire are shaded in red.StatusDutch colonyCapitalWillemstadCommon languagesPapiamento, Dutch, EnglishHistory • Established 1634• Proclamation of the Kingdom charter December 10 1954 Area• Total980 km2 (380 sq mi...
Mushroom Rock State Park, Ellsworth County, Kansas (1916)[1] The geology of Kansas encompasses the geologic history and the presently exposed rock and soil. Rock that crops out in the US state of Kansas was formed during the Phanerozoic eon, which consists of three geologic eras: the Paleozoic, Mesozoic and Cenozoic. Paleozoic rocks at the surface in Kansas are primarily from the Mississippian, Pennsylvanian, and Permian periods. Paleozoic Era The oldest rocks at the surface in Kansas...
Incidente della Freedom FlotillaLa nave turca Mavi Marmara, coinvolta nell'incidente della Freedom Flotilla Data31 maggio 20104:30 (UTC+3) LuogoNel Mar Mediterraneo nelle acque internazionali[1] di fronte allo stato di Israele ed alla striscia di Gaza Coordinate32°38′28.07″N 33°34′02.17″E32°38′28.07″N, 33°34′02.17″E ResponsabiliForze di difesa israeliane, IHH MotivazioneTentata violazione del Blocco della Striscia di Gaza ConseguenzeMorti9[2] Feritialmeno 6...
Syrie-Phénicie(la) Provincia Syria Phoenice 194 ap. J.-C. – fin du IVe siècle Informations générales Statut Province de l'Empire romain Capitale Tyr Histoire et événements 194 ap. J.-C. Création par Septime Sévère Fin du IVe siècle Division en Phénicie maritime et Phénicie libanaise Entités précédentes : Syrie Entités suivantes : Phénicie maritime Phénicie libanaise Aujourd'hui, une partie de : Syrie Liban Israël modifier - modifie...
Se ha sugerido que este artículo o sección sea fusionado con Tórax. Para más información, véase la discusión.Una vez que hayas realizado la fusión de contenidos, pide la fusión de historiales aquí.Este aviso fue puesto el 3 de marzo de 2022. Para otros usos de este término, véanse Pechero, Pecho (tributo) y Estilo braza. Pecho Pecho femenino. Pecho masculino. Los pezones son bastante rudimentarios.Nombre y clasificaciónLatín [TA]: pectusTA A01.1.00.015 [editar datos en...
Maarten WynantsWynants nel 2020Nazionalità Belgio Altezza190 cm Peso74 kg Ciclismo SpecialitàStrada, mountain bike Termine carriera2021 CarrieraSquadre di club 2004Jong Vlaanderen 20162005-2006 Chocolade Jacques2007-2010 Quick-Step2011-2012 Rabobank2013 Blanco2013-2014 Belkin2015-2018 Lotto NL-Jumbo2019-2021 Jumbo-Visma Nazionale 2009 Belgio Carriera da allenatore 2022- Jumbo-Visma Statistiche aggiornate al 1º gennaio 2022 Modifica dati su W...
Mathematical property of algebraic structures This article is about abstract algebra. For the physical law, see Archimedes' principle. Illustration of the Archimedean property. In abstract algebra and analysis, the Archimedean property, named after the ancient Greek mathematician Archimedes of Syracuse, is a property held by some algebraic structures, such as ordered or normed groups, and fields. The property, as typically construed, states that given two positive numbers x {\displaystyle x} ...