Phân bón là "chất dinh dưỡng" do con người bổ sung cho cây trồng. Trong phân bón chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho cây. Các chất dinh dưỡng chính trong phân là: đạm (N), lân (P) và kali (K), gọi là nhóm nguyên tố đa lượng. Ngoài các chất trên, còn có các nhóm nguyên tố vi lượng...
Phân bón được chia làm 3 nhóm chính: phân hữu cơ, phân hóa học (phân vô cơ) và phân vi sinh, với sự khác biệt lớn giữa chúng là về nguồn gốc chứ không phải về thành phần dinh dưỡng.
Các loại phân bón hữu cơ và một số loại phân bón khai thác vô cơ đã được sử dụng trong nhiều thế kỉ, trong khi các loại phân bón hoá học tổng hợp vô cơ chỉ được phát triển mạnh từ thời cách mạng công nghiệp. Việc hiểu biết và sử dụng tốt các loại phân bón là nhân tố quan trọng của cuộc Cách mạng Nông nghiệp Anh và cuộc Cách mạng xanh ở thế kỉ XX.
Các loại chất dinh dưỡng cung cấp cho cây từ phân bón
Các chất dinh dưỡng được tiêu thụ với số lượng lớn và hiện diện trong mô cây với các số lượng từ 0.2% đến 4.0% (theo cơ sở trọng lượng khô). Các vi chất dinh dưỡng được tiêu thụ với số lượng ít và hiện diện trong mô cây với các số lượng được đo đạc là vài phần triệu (ppm), trong khoảng từ 5 tới 200 ppm, hay chưa tới 0.02% trọng lượng khô.[1]
Các phân bón dinh dưỡng được ghi nhãn hiệu thành phần NPK và cả "N-P-K-S" tại Úc[2].
Một ví dụ về ghi nhãn phân bón là kali chloridebao gồm tỉ lệ 1:1 Kali và Clo hay 52% Kali và 48% Clo theo trọng lượng (bởi những khác biệt về trọng lượng phân tử giữa các nguyên tố). Thành phần truyền thống của 100g KCl sẽ có 60g K2O. Phần trăm thành phần của K2O từ 100g phân bón gốc là con số được thể hiện trên nhãn hiệu. Phân bón kali chloride vì thế sẽ được ghi nhãn 0-0-60, chứ không phải 0-0-52.
Sự hiểu biết hiện đại về dinh dưỡng cây trồng bắt đầu từ thế kỉ XIX cùng công việc của Justus von Liebig và những người khác. Tuy nhiên, việc quản lý độ phì nhiêu đất đã là một vấn đề được các nông dân quan tâm từ hàng nghìn năm.
Phân bón đa phần được chia thành phân bón hữu cơ (gồm thành phần hữu cơ tăng cường—cây trồng hay động vật), hay phân bón vô cơ (gồm các hoá chất và/hay khoáng chất tổng hợp).
Phân bón vô cơ thường được tổng hợp bằng quá trình Haber-Bosch, tạo ra amonia như sản phẩm cuối cùng. Amonia này được dùng như một nguyên liệu cho các phân bón nitơ khác, như anhydrous ammonium nitrat và ure. Các sản phẩm cô đặc này có thể được hoà tan bằng nước để hình thành nên một loại phân bón lỏng cô đặc (ví dụ UAN). Amonia có thể kết hợp với đá phosphate và phân bón kali trong quá trình Odda để sản xuất phân bón hợp chất.
Việc sử dụng các loại phân bón nitơ tổng hợp đã tăng ổn định trong 50 năm qua, tăng gấp 20 lần lên mức tiêu thụ hiện tại 1 tỉ tấn nitơ mỗi năm.[3] Việc sử dụng các loại phân bón phosphate cũng đã tăng từ 9 triệu tấn mỗi năm năm 1960 lên 40 triệu tấn mỗi năm năm 2000. Một vụ ngô với năng suất 6-9 tấn thu hoạch mỗi hécta cần 30–50 kg phân bón phosphate, đậu tương cần 20–25 kg mỗi hécta.[4]Yara International là nhà sản xuất phân bón nitơ lớn nhất thế giới.[5]
Các loại phân bón tổng hợp thường để sử dụng trên các cánh đồng trồng ngô, tiếp theo là lúa mạch, lúa miến, cải dầu, đậu tương và hướng dương[cần dẫn nguồn]. Một nghiên cứu đã cho thấy việc sử dụng phân bón nitơ cho cây trồng phủ đất không theo mùa có thể làm tăng biomass (và do đó là giá trị phân bón xanh) của các loại cây đó, trong khi có một hiệu ứng ích lợi trên các mức độ nitơ cho cây trồng chính được trồng vào mùa hè.[7]
Các vấn đề của phân bón vô cơ
Suy kiệt vi lượng khoáng chất
Nhiều loại phân bón vô cơ không thay thế các vi chất khoáng trong đất, vốn dần bị cạn kiệt theo mùa màng. Sự cạn kiệt này đã được liên kết với các nghiên cứu cho thấy một sự sụt giảm mạnh (lên tới 75%) trong số lượng các khoáng chất đó trong quả và rau.[8]
Tuy nhiên, một cuộc điều tra 55 nghiên cứu khoa học gần đây kết luận "không có bằng chứng về một sự khác biệt trong chất lượng chất dinh dưỡng giữa các thực phẩm chế biến hữu cơ và quy ước" [9] Trái lại, một cuộc nghiên cứu dài hạn do Liên minh châu Âu tài trợ[10][11][12] thấy rằng sữa được sản xuất theo cách hữu cơ có mức độ các chất chống oxy hoá (như carotenoids và các acid alpha-linoleic) cao hơn những loại sữa được sản xuất thông thường.
Tại miền Tây Úc những thiếu hụt kẽm, đồng, mangan, sắt và molypden đã được xác định là nguyên nhân giới hạn sự phát triển của mùa màng và đồng cỏ trong thập niên 1940 và 1950[cần dẫn nguồn]. Đất đai tại miền Tây Úc rất cũ, bị ảnh hưởng mạnh của thời tiết, thiếu hụt nhiều chất dinh dưỡng và vi chất quan trọng[cần dẫn nguồn]. Từ thời điểm đó các vi chất đó thường xuyên được thêm vào trong các loại phân bón vô cơ được sử dụng trong nông nghiệp tại bang này[cần dẫn nguồn].
Việc bón phân quá mức với một loại chất dinh dưỡng tối quan trọng có thể cũng gây hại như bón phân quá nhiều.[13] "Cháy phân bón" có thể xảy ra khi phân bón được dùng quá mức, dẫn tới làm khô kiệt rễ và gây hại, thậm chí là làm chết cây.[14]
Tiêu thụ năng lượng cao
Việc sản xuất amonia tổng hợp hiện tiêu thụ khoảng 5% lượng tiêu thụ khí tự nhiên toàn cầu, khoảng gần 2% sản xuất năng lượng của thế giới.[15]
Khí tự nhiên phần lớn được sử dụng để sản xuất amonia, nhưng các nguồn năng lượng khác, cùng với một nguồn hydro, có thể được dùng sản xuất các hỗn hợp nitơ thích hợp cho các loại phân bón. Chi phí cho khí tự nhiên chiếm khoảng 90% chi phí sản xuất amonia.[16] Sự gia tăng giá các loại khí tự nhiên trong thập kỉ vừa qua, cùng với những yếu tố khác như tăng cầu, đã góp phần làm tăng giá phân bón[17].
Tính bền vững lâu dài
Các loại phân bón vô cơ hiện được sản xuất theo các cách thức sẽ không thể tiếp tục mãi mãi[cần dẫn nguồn]. Kali và phosphor được khai thác từ các mỏ (hay các hồ muối như Biển Chết) và các nguồn đó có giới hạn. Nitơ trong khí quyển (không ngưng tụ) rõ ràng là không giới hạn (chiếm hơn 70% các loại khí trong khí quyển), nhưng đây không phải là hình thức thích hợp cho cây trồng. Để biến nitơ trở nên thích hợp cho cây cối cần quá trình ngưng tụ nitơ (biến nitơ khí quyền thành một hình thức sử dụng được cho cây trồng).
Các loại phân bón nitơ nhân tạo nói chung được tổng hợp bằng các nhiên liệu hoá thạch như khí tự nhiên và than, là các nguồn tài nguyên có giới hạn. Thay vì biến khí tự nhiên thành syngas để sử dụng trong quá trình Haber, cũng có thể biến các nguồn biomass có thể tái tạo thành syngas (hay wood gas) để cung cấp năng lượng cần thiết cho quá trình, dù số lượng đất và các nguồn tài nguyên (trớ trêu thay thường gồm cả phân bón) cần thiết cho một dự án như thế có thể là quá lớn (xem Tiết kiệm nhiên liệu ở Hoa Kỳ).
Ngoài tác dụng làm gia tăng sản lượng và cung cấp dưỡng chất trực tiếp cho cây, các loại phân bón hữu cơ có thể cải thiện sự đa dạng sinh học (tuổi thọ đất) và khả năng sản xuất lâu dài của đất[18][19] và có thể là nơi lưu giữ phần lớn lượng carbon dioxide thừa[20][21][22].
Các dưỡng chất hữu cơ làm tăng sự màu mỡ của các cơ cấu đất bằng cách cung cấp chất hữu cơ và chất dinh dưỡng cho các cơ cấu như nấm mycorrhiza[23] (giúp các loại cây hấp thu dinh dưỡng) và có thể làm giảm đáng kể nhu cầu sử dụng các loại thuốc trừ sâu, năng lượng và phân bón, nhưng làm giảm sản lượng thu hoạch[24].
Hàm lượng dinh dưỡng, tính tan và tỉ lệ nhả chất dinh dưỡng của phân bón hữu cơ nói chung đều thấp hơn các loại phân bón vô cơ[25][26]. Một cuộc nghiên cứu[cái gì?] thấy rằng trong một giai đoạn 140 ngày, sau 7 lần lọc:
Các loại phân bón hữu cơ đã nhả khoảng 25% tới 60% hàm lượng nitơ
Các loại phân bón kiểm soát độ nhả (CRFs) có tỉ lệ nhả khá đều
Phân bón hòa tan nhả hầu hết hàm lượng nitơ ở lần lọc đầu tiên
Nói chung, các chất dinh dưỡng trong phân bón hữu cơ vừa loãng vừa khó hấp thu hơn với cây trồng. Theo UC IPM, tất cả phân bón hữu cơ đều được xếp hạng là phân bón 'nhả chậm', vì thế không thể gây ra cháy nitơ[27].
Các loại phân bón hữu cơ từ phân trộn và các nguồn khác có thể khá khác biệt tuỳ theo từng mẻ{http://www.msuorganicfarm.com/Compost.pdf}, nếu không thử nghiệm cho từng mẻ số lượng dinh dưỡng cần sử dụng không được biết chắc chắn. Tuy vậy chúng ít nhất cũng có hiệu quả như các loại phân bón hoá học sau những giai đoạn sử dụng dài.
Động vật
Ure có nguồn gốc súc vật, thích hợp để sử dụng trong nông nghiệp hữu cơ, trong khi các hình thức urê tổng hợp không thích hợp[28][29]. Mối đe dọa thường thấy ở những ví dụ này là nền nông nghiệp hữu cơ tìm cách tự khẳng định mình thông qua quá trình sản xuất ở mức độ tối thiểu (trái ngược với quá trình Haber nhân tạo), cũng như chỉ xảy ra tự nhiên hay qua các quá trình sinh vật tự nhiên như ủ phân.
Bùn cống sử dụng trong nông nghiệp hữu cơ tại Hoa Kỳ đã trở nên rất hạn chế và hiếm bởi USDA cấm thực hiện (vì sự tích tụ kim loại độc cùng các yếu tố khác)[30][31][32].
USDA hiện yêu cầu chứng nhận của bên thứ ba với các loại phân bón hữu cơ lỏng có độ nitơ cao được bán trên thị trường Hoa Kỳ.[33]
Bột đá vôi[36], đá phosphat và natri nitrat khai thác tự nhiên, là vô cơ (theo nghĩa hoá học), cần thiết cho mùa màng và đã được cho sử dụng trong nông nghiệp hữu cơ với số lượng tối thiểu[36][37][38].
Các hợp chất giàu nitơ trong phân bón bị cuốn trôi là nguyên nhân chính gây ra sự suy kiệt oxy tại nhiều vùng đại dương, đặc biệt tại các vùng ven biển; việc thiếu oxy hoà tan do nguyên nhân này làm giảm rất nhiều khả năng duy trì của các khu vực đó với quần xã động vật của nó.[39] Theo bề ngoài, nước trở nên đục và trở nên mất màu (xanh, vàng, xám hay đỏ).
Khoảng một nửa số hồ ở Hoa Kỳ hiện dư thừa dinh dưỡng, trong khi số lượng những vùng chết gần các bờ biển có người sinh sống đang tăng lên.[40] Ở thời điểm năm 2006, việc sử dụng phân bón nitơ đang được kiểm soát ngày càng nghiêm ngặt tại Anh Quốc và Hoa Kỳ.[cần dẫn nguồn] Nếu tình trạng dư thừa chất dinh dưỡng có thể được đảo ngược, có thể mất nhiều thập kỉ[cần dẫn nguồn] trước khi hàm lượng nitrate tích tụ trong nước ngầm có thể bị phân huỷ bởi các quá trình tự nhiên.
Việc sử dụng nhiều phân bón nitơ vô cơ để tăng tối đa sản lượng, cộng với khả năng hoà tan lớn của chúng dẫn tới sự gia tăng cuốn trôi vào nước bề mặt cũng như thẩm thấu vào trong nước ngầm.[41][42][43] Việc sử dụng ammonium nitrat trong các loại phân bón vô cơ đặc biệt gây hại, bởi cây cối hấp thụ các ion amoniac nhiều hơn các ion nitrate, trong khi các ion nitrate thừa không được hấp thụ tan ra (do mưa hay tưới tiêu) và bị cuốn trôi vào nước ngầm.[44]
Các loại phân bón hữu cơ và vô cơ có chứa nitơ có thể gây ra acid hoá đất khi sử dụng [46]. [4]Lưu trữ 2010-06-18 tại Wayback Machine. Điều này có thể dẫn tới sụt giảm dinh dưỡng có thể được bù đắp bằng cách rắc vôi.
Uranium là một ví dụ khác về chất gây ô nhiễm thường thấy trong các loại phân bón phosphat (ở các mức độ từ 7 đến 100 pCi/g)[51]. Cuối cùng các loại kim loại nặng đó có thể tích tụ lên tới những mức độ nguy hiểm và tích tụ trong sản phẩm rau.[50](Xem Nhiễm độc cadmium) Mức thu nhận uranium hàng năm của người trưởng thành được ước tính khoảng 0.5 mg (500 μg) từ việc ăn thức ăn và nước uống và 0.6 μg từ không khí thở[52].
Các rác thải của ngành công nghiệp thép, được tái sử dụng vào trong phân bón vì có lượng kẽm lớn (rất cần thiết để cây phát triển), các loại rác thải có thể gồm những kim loại độc hại sau: chì[53]arsen, cadmium[53], chrom, và nickel. Các thành phần độc hại thường thấy nhất trong kiểu phân bón này là thủy ngân, chì và asen.[54][55] Những lo ngại đã xuất hiện liên quan tới hàm lượng thủy ngân trong cá từ ít nhất một nguồn tại Tây Ban Nha[56]
Tương tự, Polonium-210 có độ phóng xạ cao chứa trong các loại phân bón phosphat được rễ cây hấp thụ và lưu trữ trong mô của nó; thuốc lá được sản xuất từ những cây được bón bằng đá phosphat có chứa Polonium-210 tạo ra bức xạ alpha ước tính gây ra khoảng 11,700 ca tử vong vì ung thư phổi hàng năm trên thế giới.[57][58][59][60][61][62]
Vì những lý do này, nên thực hiện quản lý dinh dưỡng, thông qua việc quan sát và giám sát thận trọng mùa màng, để giảm thiểu các hiệu ứng của việc sử dụng quá mức phân bón.
Các vấn đề khác
Các hiệu ứng không khí
Sự phát thải methane từ thu hoạch mùa màng (đáng kể nhất là từ các cánh đồng lúa) đang tăng lên do việc sử dụng các loại phân bón amonia; những phát thải này đóng góp lớn vào sự thay đổi khí hậu toàn cầu bởi methane là một loại khí nhà kính mạnh.[63]
Qua việc tăng cường sử dụng phân bón nitơ, tăng với tỉ lệ 1 tỉ tấn mỗi năm như hiện nay[64] với lượng nitơ phản ứng có sẵn trong khí quyền, dinitơ monoxide (N2O) đã trở thành loại khí nhà kính có mức độ tác động lớn thứ ba sau carbon dioxide và methane. Nó có khả năng làm thay đổi khí hậu thế giới 296 lần lớn hơn một khối carbon dioxide tương tự và nó cũng góp phần làm suy giảm ozon ở tầng bình lưu.[65]
Việc lưu trữ và sử dụng một số loại phân bón nitơ trong một số điều kiện[cái gì?] thời tiết hay đất có thể gây ra phát thải khí nhà kính tiềm tàng là nitơ oxide. Khí amonia (NH3) có thể phát thải sau khi sử dụng các loại phân bón 'vô cơ' hay phân súc vật hay bùn.[cần dẫn nguồn]
Phân và urê động vật, thải ra methane, nitơ oxide, amonia, và carbon dioxide với những số lượng khác nhau tuỳ thuộc hình thức (rắn hay lỏng) và cách quản lý (thu thập, lưu trữ, rải) chúng
Bằng cách thay đổi các quá trình và quy trình, có thể giảm một số, chứ không phải toàn bộ, những hiệu ứng đó với thay đổi khí hậu toàn cầu.[cần dẫn nguồn]
Tăng sức khoẻ động vật gây hại
Việc sử dụng quá mức phân bón chứa nitơ cũng có thể dẫn tới những vấn đề về côn trùng gây hại khi làm tăng tỉ lệ sinh, tuổi thọ và sức khoẻ của một số loài gây hại với nông nghiệp.[67][68][69][70][71][72]
^Klaus Birkhofera & T. Martijn Bezemerb, c, d, Jaap Bloeme, Michael Bonkowskia, Søren Christensenf, David Duboisg, Fleming Ekelundf, Andreas Fließbachh, Lucie Gunstg, Katarina Hedlundi, Paul Mäderh, Juha Mikolaj, Christophe Robink, Heikki Setäläj, Fabienne Tatin-Frouxk, Wim H. Van der Puttenb, c and Stefan Scheua (tháng 9 năm 2008). “Long-term organic farming fosters below and aboveground biota: Implications for soil quality, biological control and productivity”. Soil Biology and Biochemistry. Soil Biology and Biochemistry. 40 (9): 2297–2308. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2010.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^A. Fliessbach & P Maeder(2), A Diop(3), LWM Luttikholt(1), N Scialabba(4), U Niggli(2), Paul Hepperly(3), T LaSalle(3) (2009). [www.iop.org/EJ/article/1755-1315/6/24/.../ees9_6_242025.pdf “ClimateChange: GlobalRisks,ChallengesandDecisions”] Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp)(PDF). P24.17 Mitigation and adaptation strategies – organic agriculture. IOPConf. Series: EarthandEnvironmentalScience6(2009)242025: IOP Publishing. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
^Paul Mäder & Andreas Fliebach,,1 David Dubois,2 Lucie Gunst,2 Padruot Fried,2 Urs Niggli1 (ngày 31 tháng 5 năm 2002). “Soil Fertility and Biodiversity in Organic Farming”. Science. Science. 296. no. 5573 (Science): 1694–1697. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2010.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^
Syers JK, Mackay AD, Brown MW, Currie CD (1986). “Chemical and physical characteristics of phosphate rock materials of varying reactivity”. J Sci Food Agric. 37: 1057–1064. doi:10.1002/jsfa.2740371102.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết).
^Trueman NA (1965). “The phosphate, volcanic and carbonate rocks of Christmas Island (Indian Ocean)”. J Geol Soc Aust. 12: 261–286.
^ ab
Taylor MD (1997). “Accumulation of Cadmium derived from fertilizers in New Zealand soils”. Science of Total Environment. 208: 123–126. doi:10.1016/S0048-9697(97)00273-8.
^
Hussein EM (1994). “Radioactivity of phosphate ore, superphosphate, and phosphogypsum in Abu-zaabal phosphate”. Health Physics. 67: 280–282. doi:10.1097/00004032-199409000-00010.
^Scholten LC, Timmermans CWM (1992). “Natural radioactivity in phosphate fertilizers”. Nutrient cycling in agroecosystems. 43: 103–107. doi:10.1007/BF00747688.
^American Public Health Association, Framing Health Matters, Waking a Sleeping Giant: The Tobacco Industry's Response to the Polonium-210 Issue: Monique E. Muggli, MPH, Jon O. Ebbert, MD, Channing Robertson, PhD and Richard D. Hurt, MD [1]
^Journal of the Royal Society of Medicine, The big idea: polonium, radon and cigarettes, Tidd J R Soc Med.2008; 101: 156-157 [2]Lưu trữ 2010-04-05 tại Wayback Machine
^The Age Melbourne Australia, Big Tobacco covered up radiation danger, William Birnbauer [3]
^Jahn GC (2004). “Effect of soil nutrients on the growth, survival and fecundity of insect pests of rice: an overview and a theory of pest outbreaks with consideration of research approaches. Multitrophic interactions in Soil and Integrated Control”. International Organization for Biological Control (IOBC) wprs Bulletin. 27 (1): 115–122..
^Jahn GC, Cox PG, Rubia-Sanchez E, Cohen M (2001). “The quest for connections: developing a research agenda for integrated pest and nutrient management. pp. 413-430”. S. Peng and B. Hardy [eds.] "Rice Research for Food Security and Poverty Alleviation". Proceeding the International Rice Research Conference, 31 March – ngày 3 tháng 4 năm 2000, Los Baños, Philippines. Los Baños (Philippines): International Rice Research Institute.: 692.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Preap V, Zalucki MP, Nesbitt HJ, Jahn GC (2001). “Effect of fertilizer, pesticide treatment, and plant variety on realized fecundity and survival rates of Nilaparvata lugens (Stål); Generating Outbreaks in Cambodia”. Journal of Asia Pacific Entomology. 4 (1): 75–84.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết).
^Preap V, Zalucki MP, Jahn GC (2002). “Effect of nitrogen fertilizer and host plant variety on fecundity and early instar survival of Nilaparvata lugens (Stål): immediate response”. Proceedings of the 4th International Workshop on Inter-Country Forecasting System and Management for Planthopper in East Asia. 13-ngày 15 tháng 11 năm 2002. Guilin China. Published by Rural Development Administration (RDA) and the Food and Agriculture Organization (FAO): 163–180, 226.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Liên kết ngoài
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Phân bón.
Bagian dari seriGereja Katolik menurut negara Afrika Afrika Selatan Afrika Tengah Aljazair Angola Benin Botswana Burkina Faso Burundi Chad Eritrea Eswatini Etiopia Gabon Gambia Ghana Guinea Guinea-Bissau Guinea Khatulistiwa Jibuti Kamerun Kenya Komoro Lesotho Liberia Libya Madagaskar Malawi Mali Maroko Mauritania Mauritius Mesir Mozambik Namibia Niger Nigeria Pantai Gading Republik Demokratik Kongo Republik Kongo Rwanda Sao Tome dan Principe Senegal Seychelles Sierra Leone Somalia Somaliland ...
Adrian Hasler Perdana Menteri LiechtensteinMasa jabatan27 Maret 2013 – 25 Maret 2021Penguasa monarkiHans-Adam IIAlois (regent)WakilThomas ZwiefelhoferDaniel Risch[1] PendahuluKlaus TschütscherPenggantiDaniel RischAnggota LandtagMasa jabatan11 Februari 2001 – Maret 2004 Informasi pribadiLahir11 Februari 1964 (umur 60)Vaduz, LiechtensteinPartai politikPartai Warga Negara ProgresifSuami/istriGudrun Elkuch (m. 2003)Anak2Orang tuaA...
Sculpture by Giuseppe Ceracchi George WashingtonBust at the Metropolitan Museum of ArtArtistGiuseppe CeracchiYear1795 (1795)TypeSculptureMediumMarbleSubjectGeorge WashingtonDimensions73.3 cm × 55.9 cm × 33 cm (28.9 in × 22.0 in × 13 in) George Washington is a marble bust portrait of George Washington, done in the style of a Roman emperor, by the Italian sculptor Giuseppe Ceracchi.[1] It was created as part ...
Raja Mesir (Firaun) ialah posisi yang ada dalam beberapa bentuk yang sejak 3000 SM sampai pertengahan abad ke-20. Sejak itu negara Mesir diperintah oleh seorang presiden Daftar penguasa Mesir Kuno Artikel utama: Daftar raja Mesir kuno Berikut adalah daftar raja, ratu, dan firaun Mesir kuno, dari periode awal sebelum 3000 SM sampai akhir dinasti Ptolemeus ketika Mesir menjadi salah satu provinsi Roma di bawah pemerintahan Augustus Caesar pada 30 SM. Tanggal-tanggal yang dicantumkan adalah perk...
Cargo ship of the United States Navy For other ships with the same name, see USS Sappho. History United States NameUSS Sappho NamesakeThe asteroid Sappho BuilderWalsh-Kaiser Company, Providence, Rhode Island Laid down12 December 1944 Launched3 March 1945 Commissioned24 April 1945 Decommissioned23 May 1946 Stricken15 October 1946 FateSold for scrap in 1965 General characteristics Class and typeArtemis-class attack cargo ship TypeS4–SE2–BE1 Displacement 4,087 long tons (4,153 t) light ...
Ground Launched Cruise Missile, atau GLCM, (secara resmi dinamai BGM-109G Gryphon) adalah rudal jelajah yang diluncurkan dari darat yang dikembangkan oleh Angkatan Udara Amerika Serikat dalam dekade terakhir Perang Dingin dan dilucuti berdasarkan Perjanjian INF. [1][2][3] Gambaran umum BGM-109G dikembangkan sebagai counter untuk rudal nuklir MRBM dan IRBM mobile (SS-20 Sabre) yang digunakan oleh Uni Soviet di negara-negara Blok Timur Eropa. GLCM juga merupakan istilah...
American stock car racing driver NASCAR driver Derrike CopeCope at Pocono Raceway in 2017BornDerrike Wayne Cope (1958-11-03) November 3, 1958 (age 65)San Diego, California, U.S.Achievements1990 Daytona 500 WinnerAwards1984 Winston West Series Rookie of the Year West Coast Stock Car Hall of Fame (2013)NASCAR Cup Series career429 races run over 32 years2021 position42ndBest finish15th (1995)First race1982 Winston Western 500 (Riverside)Last race2021 Daytona 500 (Daytona)First win1990 Dayto...
Questa voce sull'argomento centri abitati del Nicaragua è solo un abbozzo. Contribuisci a migliorarla secondo le convenzioni di Wikipedia. Corintocomune Corinto – Veduta LocalizzazioneStato Nicaragua DipartimentoChinandega TerritorioCoordinate12°29′00″N 87°10′00″W / 12.483333°N 87.166667°W12.483333; -87.166667 (Corinto)Coordinate: 12°29′00″N 87°10′00″W / 12.483333°N 87.166667°W12.483333; -87.166667 (Corinto) Altitudin...
Not to be confused with the Australia First Movement. Political party in Australia Australia First Party Australia First Party (NSW) IncorporatedAbbreviationAFPPresidentJim SaleamDeputy LeaderPeter SchubackFounderGraeme CampbellFoundedJune 1996; 27 years ago (June 1996)Registered1996[1]2010[2]2016[3][a]HeadquartersTempe, New South Wales, AustraliaNewspaper Audacity (2008–2020)[4] Youth wingEureka Youth LeagueIdeology Australian nation...
Former architectural firm in Indianapolis, Indiana, United StatesVonnegut & BohnAthenæum (Das Deutsche Haus), Indianapolis, IndianaPractice informationPartnersBernard Vonnegut Sr.Arthur BohnFounded1888LocationIndianapolis, Indiana Bernard Vonnegut Sr., FAIA, photographed in 1884 Student Building (right), Indiana University at Bloomington Vonnegut & Bohn was an architectural firm in Indianapolis, Indiana in the United States. Founded in 1888 by Bernard Vonnegut Sr., FAIA (1855–1908)...
City of BeasleycityCity of Beasley – VedutaTorre idrica LocalizzazioneStato Stati Uniti Stato federato Texas ConteaFort Bend TerritorioCoordinate29°29′47″N 95°55′02″W / 29.496389°N 95.917222°W29.496389; -95.917222 (City of Beasley)Coordinate: 29°29′47″N 95°55′02″W / 29.496389°N 95.917222°W29.496389; -95.917222 (City of Beasley) Altitudine33 m s.l.m. Superficie2,6 km² Abitanti590 (2000) Densità226,92 ab./k...
Craig Harris suona il trombone Il trombone è uno strumento musicale della famiglia degli ottoni. Il primo debutto del trombone nel jazz fu col Dixieland jazz come ruolo di supporto all'interno del Dixie Group. Questo ruolo in seguito finì sotto i riflettori quando musicisti come J.J. Johnson e Jack Teagarden iniziarono a sperimentare di più con lo strumento, scoprendo che poteva avere un suo ruolo insieme al sassofono e alla tromba nel bebop. Da allora il trombone è cresciuto fino ad esse...
Artikel ini sebatang kara, artinya tidak ada artikel lain yang memiliki pranala balik ke halaman ini.Bantulah menambah pranala ke artikel ini dari artikel yang berhubungan atau coba peralatan pencari pranala.Tag ini diberikan pada Maret 2016. SD Negeri Alasombo 01InformasiJenisSekolah NegeriKepala SekolahDrs. Jiran PurwantoRentang kelasI - VIAlamatLokasiMojosari, Alasombo, Kabupaten Sukoharjo, Jawa Tengah, IndonesiaMoto SD Negeri Alasombo 01, merupakan salah satu Sekolah Dasar nege...
Artikel ini sebatang kara, artinya tidak ada artikel lain yang memiliki pranala balik ke halaman ini.Bantulah menambah pranala ke artikel ini dari artikel yang berhubungan atau coba peralatan pencari pranala.Tag ini diberikan pada Oktober 2022. NorrønaDidirikan29 April 1929KantorpusatLysaker, NorwegiaProdukPakaian dan peralatan olahragaSitus webnorrona.com Norrøna adalah sebuah merek pakaian luar ruang dan peralatan olahraga asal Norwegia. Perusahaan ini didirikan pada tahun 1929 oleh Jørg...
2013 American filmThe Power InsideDirected byWill Speck and Josh GordonWritten byMatthew RobinsonProduced byFurlined/LovechildStarring Harvey Keitel Analeigh Tipton Craig Roberts CinematographyJo WillemsEdited byRick PearsonMusic byElias ArtsProductioncompanyIntel/ToshibaDistributed byPereira & O'dellRelease date August 14, 2013 (2013-08-14) CountryUnited StatesLanguageEnglish The Power Inside is a 2013 comedy social film developed by Intel and Toshiba. It is Intel and Tosh...
Auto industry Thailand A locally-built Mitsubishi L200 as a songthaew in Pattaya As of 2019[update], the automotive industry in Thailand is the largest in Southeast Asia[1] and the 10th largest in the world.[2][3][4] The Thai industry has an annual output of more than two million vehicles (passenger cars and pickup trucks), more than countries such as Belgium, Canada, the United Kingdom, Italy, Czech Republic and Turkey.[4] Most of the vehicles ...
Westerhorn. Westerhorn adalah kota yang terletak di distrik Pinneberg, Schleswig-Holstein, Jerman. Kota Westerhorn memiliki luas sebesar 9.37 km². Westerhorn pada tahun 2006, memiliki penduduk sebanyak 1.315 jiwa. lbsKota dan kotamadya di Pinneberg (distrik) Appen Barmstedt Bevern Bilsen Bokel Bokholt-Hanredder Bönningstedt Borstel-Hohenraden Brande-Hörnerkirchen Bullenkuhlen Ellerbek Ellerhoop Elmshorn Groß Nordende Groß Offenseth-Aspern Halstenbek Haselau Haseldorf Hasloh Heede He...
Military rank for a senior non-commissioned officer in the armed forces of some countries This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Senior master sergeant – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (January 2022) (Learn how and when to remove this message) Senior master sergeant is the military rank...