Phân họ Cẩm quỳ (danh pháp khoa học: Malvoideae) là một phân họ, tối thiểu là bao gồm chi Malva. Nó được Burnett sử dụng lần đầu tiên năm 1835[1], nhưng đã không được sử dụng nhiều cho tới tận gần đây, khi mà trong phạm vi khuôn khổ của hệ thống APG người ta hợp nhất các họ Malvaceae nghĩa hẹp, Bombacaceae, Sterculiaceae và Tiliaceae của hệ thống Cronquist để mở rộng họ Malvaceae và chia nó ra thành 9 phân họ, trong đó có phân họ Malvoideae.
Phân họ Malvoideae trong hệ thống Kubitzki bao gồm 4 tông là Malveae, Gossypieae, Hibisceae và Kydieae cùng 2-3 chi không đặt vào tông nào là Jumelleanthus, Howittia và có lẽ cả Alyogyne. Phân họ Malveae bao gồm các loài cẩm quỳ, cối xay và một số loài đồng minh khác. Gossypieae bao gồm bông và các loài đồng minh. Hibisceae bao gồm dâm bụt và các loài đồng minh khác.
Baum và ctv. đã mở rộng khái niệm (về mặt miêu tả theo nhánh, tất cả các loài thực vật này đều có quan hệ họ hàng gần gũi với Malva sylvestris hơn là so với Bombax ceiba) của phân họ Malvoideae để gộp thêm cả tông Matisieae (gồm 3 chi là Matisia, Phragmotheca, Quararibea chứa các loài cây gỗ ở vùng nhiệt đới Tân thế giới, nhưng điều này là không chắc chắn, do tông này có thể có quan hệ gần với phân họ Gạo.) và các chi Camptostemon, Lagunaria, Pentaplaris cùng Uladendron[2].
Phân loại
Phân họ Malvoideae bao gồm khoảng 78 chi với khoảng 1.670 loài[3]. Các chi đa dạng nhất về loài trong phân họ là dâm bụt (Hibiscus spp.) với khoảng 550-580 loài. Phân họ này chia thành 4 tông như nói trên đây cùng 3 chi (Alyogyne, Howittia, Jumelleanthus) không đặt trong tông nào và có lẽ cả hai tông (Matisieae, Fremontodendreae) cùng 4 chi khác nữa (Camptostemon, Pentaplaris, Lagunaria và Uladendron), nhưng điều này là chưa chắc chắn.
Gossypium: Phân chia thành 4 phân chi, khoảng 50 loài. Phân bố rộng khắp vùng nhiệt đới, chủ yếu là các môi trường sống khô cằn. Một vài loài và thứ được gieo trồng để lấy bông.
Alyogyne: 4 loài tại Australia. Vị trí không chắc chắn. Kubitzki & Bayer[7] đặt nó như là chi dị thường trong tông Gossypieae trên cơ sở công trình của La Duke và Doebley. Hutchinson[8] không chỉ đặt nó trong tông Gossypieae, mà còn giảm nó thành từ đồng nghĩa của Cienfuegosia. Tuy nhiên, các nghiên cứu cpDNA của Pfeil và ctv.[9] cho thấy vị trí không chắc chắn của chi Alyogyne[10].
Không thuộc Eumalvoideae
Howittia: 1 loài Howittia trilocularis F. Mueller tại đông nam Australia. Có thể gán vào tông Hibisceae hoặc tông Malveae[11] hay không vào đâu như đề cập tại đây.
Pentaplaris: Có thể thuộc phân họ Gạo. 3 loài tại Trung và Nam Mỹ. Nguyên thủy đặt trong tông Brownlowieae của họ Đoạn (Tiliaceae)[12].
Lagunaria: 1 loài Lagunaria patersonia (Andrews) G. Don tại Australia (bao gồm các đảo Norfolk và Lord Howe). Chi này được Reichenbach đề xuất năm 1828, dựa trên miêu tả năm 1824 của De Candolle về chi Hibiscus đoạn Lagunaria. Họ hàng gần nhất là chi Howittia[13].
^Baum D. A., S. D. Smith, A. Yen, W. S. Alverson, R. Nyffeler, B. A. Whitlock và R. L. Oldham (2004). “Phylogenetic relationships of Malvatheca (Bombacoideae and Malvoideae; Malvaceae sensu lato) as inferred from plastid DNA sequences”. American Journal of Botany. 91: 1863–1871. doi:10.3732/ajb.91.11.1863.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết), tóm tắt tại đâyLưu trữ 2010-06-21 tại Wayback Machine, toàn văn tại đâyLưu trữ 2008-06-16 tại Wayback Machine.
Bayer C. và K. Kubitzki, 2003. Malvaceae, trang 225-311. Trong K. Kubitzki (chủ biên), The Families and Genera of Vascular Plants, quyển 5, Malvales, Capparales and non-betalain Caryophyllales.