Paul Claudel sinh ở Villeneuve-sur-Fère trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Cha mẹ ông, Louis-Prosper và Louise Cerveaux, còn có một người con nổi tiếng khác là nhà điêu khắc Camille Claudel, chị gái của Paul Claudel. Hồi nhỏ học ở Lycée Bar-le-Duc, tỉnh Champagne, sau gia đình chuyển lên Paris học ở Lycée Louis-le-Grand. Từ năm 1893 làm ở Bộ Ngoại giao Pháp. Từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Mỹ. Paul Claudel được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, năm 1946 được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Pháp.
Paul Claudel được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, là nhà thơ có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Theo lời của chính Paul Claudel thì cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Paul Claudel không quan tâm đề tài về "những người nào" mà "họ phải trở thành những người nào". Với vai trò của một nhà thuyết giáo, ông làm thơ theo thể tự do (chịu ảnh hưởng của Walt Whitman) và những bài văn xuôi theo phong cách Kinh Thánh mà, theo lời ông, thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Những tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của ông có thể kể đến Cinq grands odes (Năm bài ode lớn, 1910), La cantate а trois voix (Bản đại hợp xướng dành cho ba giọng, 1931). Ngoài ra, rất nhiều vở kịch của ông được dựng thành những bộ phim nổi tiếng. Ông mất ở Paris năm 1955.
Tác phẩm
Kịch
Tête d'or (1890)
La Jeune Fille Violaine (1892)
La Ville (1893)
L'Échange; Tête d'Or (1894)
La Jeune Fille Violaine (1901)
Le Repos du septième jour (1901)
L'Otage (1911)
L'Annonce faite à Marie (1912)
L'Ours et la Lune (1917)
Le Pain dur (1918)
Les Choéphores d'Eschyle (1919)
Le Père humilié (1920)
Les Euménides d'Eschyle (1920)
Protée (1920)
Le Soulier de satin (1929)
Le Livre de Christophe Colomb (1933)
Jeanne d'Arc au bûcher (1939)
La Sagesse ou la Parabole du destin (1939)
L'Histoire de Tobie et de Sara (1942)
Partage de midi (1948)
Protée (1949)
Thơ
Connaissance de l'Est (1896)
Poèms de la Sexagésime (1905)
Processionnal pour saluer le siècle nouveau (1907)
Cinq grands odes (Năm bài ode lớn, 1910)
Corona benignitatis anni dei (1915)
La Messe là-bas (1919)
Poèmes de guerre (1914-1916) (1922)
Feuilles de saints (1925)
La cantate а trois voix (Bản đại hợp xướng dành cho ba giọng, 1931)
Cent phrases pour éventails (1942)
Visages radieux (1945)
Accompagnements (1949)
Văn xuôi
Positions et propositions (2 tập, 1928, 1934)
L'Oiseau noir dans le soleil levant (1929)
Conversations dans le Loir-et-Cher (1935)
Figures et paraboles (1936)
Contacts et circonstances (1940)
Seigneur, apprenez-nous à prier (1942)
L'Œoeil écoute (1946)
Emmaüs (1949)
Une voix sur Israël (1950)
L'Évangile d'Isaïe (1951)
Paul Claudel interroge l'Apocalypse (1952)
Paul Claudel interroge le Cantique des Cantiques (1954)