Năm lên 6 tuổi, ông học chữ Hán, năm 10 tuổi học chữ Quốc ngữ. Năm 15 tuổi, ông lại học chữ Hán với cụ Tú Tịnh, sau đó đến Phú Thuận (Châu Đốc, nay thuộc huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp) tiếp tục học với Tú tài Trần Hữu Thường. Và chính ông thầy này đã làm cho Nguyễn Quang Diêu sớm thấy được cái nhục mất nước[2]
Tháng 9 năm 1908, Nhật Bản thi hành Hiệp ước Pháp-Nhật, theo đó ra lệnh giải tán Đông Á đồng văn thư viện và Cống hiến hội, trục xuất du học sinh ra khỏi đất Nhật Bản. Tháng 2 năm 1909, Kỳ Ngoại hầu Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất, phong trào Đông Du tan rã.
Biết Nguyễn Quang Diêu có tham gia phong trào này, nên thực dân Pháp bắt giam ông một thời gian rồi bị an trí.
Tháng 5 năm 1913, ông cầm đầu một phái đoàn gồm hơn mười người trong đó có Nguyễn Thần Hiến, Đinh Hữu Thuật...qua Hồng Kông hoạt động với Phan Bội Châu. Nhưng vừa đến nơi thì tất cả đều bị thực dân Pháp bắt giải về giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), rồi đày sang đảo Guyane (Nam Mỹ).
Năm 1917, ông vượt ngục trốn sang đảo Trinidad (thuộc địa Anh) giả dạng làm người Trung Quốc.
Cuối năm 1926, ông bí mật về hoạt động trong nước. Sau một thời gian ở Sài Gòn, ông tới Sa Đéc (nay là Đồng Tháp) vào đầu năm 1927. Được sự hỗ giúp đỡ của Võ Hoành, ông đổi tên là Trần Văn Vẹn, rồi đi tuyên truyền tinh thần yêu nước và gầy dựng cơ sở cách mạng tại các vùng Hồng Ngự, Cao Lãnh và Tân Châu...
Năm 1930, được một số hương chức làng Vĩnh Hòa (Tân Châu) giúp đỡ, ông đến đó mở trường dạy học và làm nghề hốt thuốc.
Trong mỗi thời kỳ hoạt động, Nguyễn Quang Diêu đều có làm nhiều thơ. Đây là chứng tích cho từng chặng đường gian nguy nhưng hào hùng đó.
Thơ ông có hàng trăm bài với đủ các thể loại, là một đóng góp không nhỏ của ông cho văn học yêu nước thời cận đại Việt Nam. Sau này, các học trò ông tập hợp thành các quyển:
Cảnh Sơn Nguyễn Quang Diêu thi văn sưu tập (chữ Quốc ngữ, do ông Nguyễn Công Rao sưu tập).
Cảnh Sơn thi tập (chữ Nôm và chữ Hán, do ông Phạm Trung Chánh sưu tập).
Cảnh Sơn thi tập chi nhứt (chữ Nôm và chữ Hán, cũng do ông Chánh sưu tập)[3]
Nhìn chung thơ ông hàm súc, lời thơ bình dị, trong sáng, tự nhiên, thể hiện được tinh thần bất khuất và cá tính của người dân Nam Bộ. Lúc bị giam ở Hỏa Lò, ông làm nhiều bài phản ánh về chế độ lao tù của thực dân lúc bấy giờ. Ngoài ra, ông còn làm nhiều bài thơ thể hiện tinh thần duy tân cấp tiến của ông[4]
Năm 1974 tại Sài Gòn, GS. Nguyễn Văn Hầu đã trích giới thiệu một số bài thơ của ông trong quyển Nguyễn Quang Diêu - phong trào Đông Du miền Nam do nhà xuất bản Hương sơn ấn hành.
Năm 1985, thơ ông (6 bài) lại được giới thiệu trong bộ sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858-1920) quyển 2 do GS. Huỳnh Lý chủ biên, nhà xuất bản Văn học ấn hành tại Hà Nội.
Tên ông Nguyễn Quang Diêu còn được đặt cho một trường "Trung học phổ thông Nguyễn Quang Diêu" tại ấp Tân Phú B, xã Tân An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, gần khu căn cứ cách mạng nổi tiếng Giồng Trà Dên, xã Tân Thạnh (chia tách từ xã Tân An).
Sách tham khảo
Nguyễn Q. Thắng, mục từ Nguyễn Quang Diêu in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Nguyễn Q. Thắng- Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1992.
Nhiều người soạn, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858-1920) quyển 2. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1985.
Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (Tập 2). UBND tỉnh An Giang tổ chức biên soạn và ấn hành, 2007.
Chú thích
^Nguyễn Quang Diêu là con thứ tư trong gia đình, nên sau này người dân còn gọi ông là anh Năm hay thầy Năm theo cách gọi của Nam Bộ (theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, tr. 616).