Thuật từ Montagnard vốn có nghĩa là "người miền núi" trong tiếng Pháp, được dùng với nghĩa như hiện nay từ thời Pháp thuộc. Trong khi đó Đêga là cách gọi có nguồn gốc bản địa.
Thượng có nghĩa là ở trên, người Thượng là người ở miền cao hay miền núi, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống tại Miền Thượng, sau này cũng gọi là Cao nguyên Trung Phần, hay Tây Nguyên; từ "người Thượng" theo nghĩa rộng cũng có thể đề cập đến tất cả các dân tộc thiểu số ở miền núi Việt Nam nói chung. Thời Việt Nam Cộng hòa, chính sách dân tộc dành cho miền Thượng được gọi là Thượng vụ.
Năm 1956, Tổng thốngNgô Đình Diệm của nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam cho thành lập Văn phòng Cố vấn Thượng Vụ để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao nguyên miền Thượng. Năm 1957, Văn phòng Cố vấn Thượng Vụ được nâng cấp lên thành Nha Công tác Xã hội Miền Thượng trực thuộc Phủ Tổng thống, trụ sở đặt tại Huế. Năm 1958, Phòng Xã hội được thành lập tại Tây Nguyên với mục đích chính giúp học sinh người sắc tộc được theo học như người Kinh.
Mặc dù chính sách đề ra cố gắng giúp người Thượng hội nhập và đề cao khái niệm quốc gia nhưng cũng vướng vào hậu quả gây thiệt hại kinh tế và tổn thương tự ái của các sắc tộc vùng Cao nguyên Trung phần. Phong trào BAJARAKA bộc phát như một phản ứng của người Thượng.
Thời kỳ quân quản 1963-1967
Sau khi nền Đệ Nhất Cộng hòa sụp đổ, năm 1964 Nha Công tác Xã hội miền Thượng đổi thành Nha Đặc trách Thượng Vụ trực thuộc Bộ Quốc phòng và sau đó được nâng cấp lên thành Phủ Đặc ủy Thượng vụ.
Năm 1969, Bộ Sắc tộc (Bộ Phát triển Sắc tộc) được thành lập ngay trong chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời Đệ Nhị Cộng hòa do một người Thượng lãnh đạo, và có chức năng tương đương các bộ khác trong chính phủ. Tổng trưởng Bộ Sắc tộc lần lượt là các ông Paul Nưr, Ya Ba, cuối cùng là ông Nay Luett (Nay Louette), một lãnh tụ Gia Rai, cho đến ngày Sài Gòn sụp đổ năm 1975.[2]