Lớp Nagara là lớp tàu tuần dương hạng nhẹ thứ hai của Hải quân Đế quốc Nhật Bản dựa trên trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 5.500 tấn. Ở khía cạnh kích cỡ và khả năng hoạt động của tàu tuần dương hạng nhẹ, nó hầu như tương đương với lớp Kuma trước đó. Tuy nhiên, đây là lớp tàu tuần dương đầu tiên được trang bị kiểu ngư lôiOxy Kiểu 93 610 mm.
Thiết kế
Sự sắp xếp của lớp Nagara tương tự như của các tàu tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh đương thời, bao gồm một máy phóng cố định dành cho thủy phi cơ hướng về phía mũi tàu bên trên pháp pháo số 1 và số 2. Tuy nhiên, vào những năm 1930, những máy phóng này được tháo dỡ do ưa chuộng kiểu bệ xoay phía sau đuôi tàu. Lớp Nagara trải qua nhiều đợt tái trang bị và nâng cấp vũ khí trong quá trình chiến tranh tại Thái Bình Dương.
Vũ khí trang bị
Vũ khí chính của lớp Nagara là bảy khẩu pháo 140 mm (5,5 inch) bố trí trên những tháp pháo đơn bọc thép kín.: hai khẩu trên trục giữa hướng ra trước, ba khẩu trên trục giữa phía sau cầu tàu hướng ra sau, và một khẩu mỗi bên mạn cạnh cấu trúc thượng tầng. Tuy nhên, chỉ có sáu trong số bảy khẩu pháo có thể bắn ngang mạn tàu. Hỏa lực hạng hai bao gồm hai khẩu 76 mm (3 inch).
Sau trận Midway, giới lãnh đạo cấp cao Hải quân Nhật bắt đầu nhận thức sự mong manh của hạm đội trước các cuộc tấn công bằng máy bay và tàu ngầm Mỹ, và tiến hành các biện pháp nâng cấp vũ khí chống máy bay và chống tàu ngầm trên các con tàu nổi. Các khẩu pháo chính 140 mm của lớp Nagara trở nên vô dụng đối với máy bay vì chuyển động xoay chậm (vận hành bằng tay) và vì chúng không thể nâng cao hơn góc 45 độ.
Mỗi chiếc trong lớp Nagara được gọi quay về Nhật Bản để tái trang bị và nâng cấp. Tháp pháo 140mm số 5 (ngay phía sau ba ống khói) được tháo bỏ, và khẩu đội súng máy 13 mm bốn nòng phía trước cầu tàu được thay thế bởi một khẩu đội 13 mm hai nòng. Với trọng lượng tiết giảm được, Hai khẩu đội pháo phòng không ba nòng Kiểu 96 25mm được trang bị, cùng một hệ thống radar dò tìm trên không Kiểu 21.
Tương tự, tháp pháo số 7 tận cùng cũng được thay thế bằng một khẩu đội 5-inch (127mm) Kiểu 89 40 caliber đa dụng nòng đôi không che chắn. Một khẩu đội phòng không Kiểu 96 25 mm ba nòng và bốn khẩu 25mm phòng không nòng đơn được bổ sung. Cùng với việc tháo bỏ máy phóng thủy phi cơ, một hệ thống radar dò tìm mặt đất Kiểu 22 được trang bị; mười khẩu 25 mm nòng đơn cũng được bổ sung (nâng tổng cộng lên 30 khẩu) cùng năm khẩu súng máy 13 mm nòng đơn. Thêm vào đó, các giá thả mìn sâu thay thế cho mìn mang theo trước đây, và thiết bị dò âm dưới nước cũng được trang bị.
Các cải tiến này đã đưa đến trọng lượng rẽ nước cuối cùng vượt quá 7.000 tấn, làm giảm tốc độ tối đa xuống dưới 59 km (32 knot).
Isuzu (五十鈴) được chế tạo tại hãng đóng tàu Uraga, và được đưa vào hoạt động ngày 15 tháng 8 năm 1923. Isuzu hỗ trợ các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản tại Trung Quốc, Đông Dương thuộc Pháp, Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan vào đầu Thế Chiến II. Trong chiến dịch Quần đ̉ao Solomon, nó từng tham gia trận Santa Cruz và Hải chiến Guadalcanal rồi sau đó là trận chiến vịnh Leyte. Nó bị một nhóm tàu ngầm Mỹ đánh chìm ngoài khơi Sumbawa vào ngày 7 tháng 4 năm 1945.
Kinu (鬼怒) được hoàn tất tại xưởng đóng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 10 tháng 11 năm 1922. Kinu từng can dự vào vụ đánh chìm Prince of Wales và Repulse, và tham gia hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Sau đó nó tham gia nhiều chiến dịch tại quần đảo Solomon và Philippines, và bị máy bay Mỹ đánh chìm trong vùng biển Visayan vào ngày 26 tháng 10 năm 1944.
Chú thích: D - Chiếc duy nhất trong lớp • C - Kiểu tàu được cải biến • N - Xếp lớp tàu tuần dương hạng nhẹ theo Hiệp ước hải quân Washington cho đến năm 1939 • H - Chưa hoàn tất vào lúc chiến tranh kết thúc