Mô hình Harrod–Domar là một mô hình Keynes về tăng trưởng kinh tế. Nó được sử dụng trong kinh tế học phát triển để giải thích tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế về mức độ tiết kiệm và vốn. Mô hình này cho thấy rằng không có lý do tự nhiên nào để một nền kinh tế có được sự tăng trưởng cân bằng. Mô hình này được phát triển độc lập bởi Roy F. Harrod vào năm 1939,[1] và Evsey Domar vào năm 1946,[2] mặc dù một mô hình tương tự đã được Gustav Cassel đề xuất vào năm 1924.[3] Mô hình Harrod–Domar là tiền thân của mô hình Solow–Swan.[4]
^Hagemann, Harald (2009). “Solow's 1956 Contribution in the Context of the Harrod-Domar Model”. History of Political Economy. 41 (Suppl 1): 67–87. doi:10.1215/00182702-2009-017.
^Scarfe, Brian L. (1977). “The Harrod Model and the 'Knife Edge' Problem”. Cycles, Growth, and Inflation: A Survey of Contemporary Macrodynamics. New York: McGraw-Hill. tr. 63–66. ISBN0-07-055039-5.