L. indicus được thu thập trên các rạn san hô ở độ sâu khoảng 5–50 m; tương tự như L. russellii, cá con của L. indicus có thể được tìm thấy ở vùng hạ lưu sông và ở vùng đầm lầy ngập mặn (nước lợ).[4]
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. indicus là gần 30 cm.[5] Loài này có màu xám nhạt, ánh bạc ở má, nắp mang và thân dưới. Từ đầu trở ra sau đuôi có 7 sọc ngang màu vàng nâu/nâu sẫm. Đốm đen nổi rõ ở sau lưng, to gấp 1,2–1,5 lần mắt. Các vây màu trắng mờ, thường ánh xanh lam (vây đuôi và vây lưng có thể có màu nâu ở gốc). Vây ngực trong mờ, thường có viền vàng ở rìa trên.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 47–49.[6]
So sánh
L. indicus khác biệt rõ ràng với loài chị em của nó, L. russellii, bởi có 7 sọc vàng-nâu ở hai bên thân, còn L. russellii trưởng thành không có sọc này. Tuy vậy, cá con L. russellii (<5 cm chiều dài tiêu chuẩn) lại có các sọc này nhưng lại dày hơn.[7]
Sinh thái
L. indicus có thể sống đơn độc hoặc hợp thành những nhóm nhỏ.[8]
^Saha, Shilpi; Chakraborty, Sanjay; Sehrin, Subrina; Masud, Abdullah Al; Habib, Kazi Ahsan; Baki, Mohammad Abdul (2018). “New records of two Lutjanus species (Teleostei: Perciformes: Lutjanidae) with re-description of six lutjanids from Saint Martin's Island of the Bay of Bengal, Bangladesh”. Bangladesh Journal of Zoology. 46 (2): 239–253. doi:10.3329/bjz.v46i2.39056. ISSN2408-8455.