Dưới đây là những thiết kế, kiểu dáng xe tăng được phát triển từ lâu. Chúng là tiền thân cho những chiếc xe tăng hiện đại bây giờ.
Thời cổ
Từ lâu đời, các xe trận giáp tốt chạy nhanh bắn xa vẫn là vũ khí được trọng trong chiến đấu. Từ thời đồ đồng, người tướng đã đi xe trận, bên cạnh có bộc xạ là người hầu bắn cung. Chiến tranh Hán Sở có loại xe của Hàn Tín gây thương vong lớn cho quân Sở trong trận Bành Thành, theo mô tả còn lại cũng có giáp dày di nhanh cung bắn xa [cần dẫn nguồn]. Cuối thời Hán, trong loạn Tam Quốc cũng có chuyện Khương Duy dùng các xe bọc thép gây nguy cho Khổng Minh. Trong kinh truyện cổ Vệ Đà của Ấn Độ cũng nói đến xe trận thọc sâu trong đội hình mũi dùi. Leonardo da Vinci cũng có mô hình xe tăng của mình.
Hoàng Đế Quang Trung có đạo tượng binh, voi có da dày, trên có 4-5 người ngồi, có một pháo và nhiều cung, lao, đao để bắn các tầm. Binh chủng này được dùng trước đó ở nhiều nước Nam và Đông Nam Á như Lào, Java và Thái Lan.
Thế kỷ 19
Trong thế kỷ 19, chiến tranh kiểu công thành của châu Âu chấm dứt. Súng đã làm thành quách cùng việc phòng thủ cố định lạc hậu. Thay cho thành quách, người ta xây dựng các hệ thống công sự dã chiến, dễ làm và dễ sửa, dễ di chuyển. Đào sâu xuống thay cho đắp cao như thành. Điều này gây khó khăn cho chiến thuật dùng pháo công thành. Trận Verdun đầu thế kỷ 20 ví dụ rất rõ cho điều đó, Đức dùng những pháo rất lớn, có thể bắn sập bất cứ toàn thành kiên cố nào, nhưng không thể vượt qua quân Pháp. Mất rất nhiều công bắn pháo nhưng tốc độ phá hủy hệ thống công sự chậm hơn tốc độ xây dựng và sửa chữa.
Thế kỷ 19 đánh dấu nhiều thay đổi về quân sự do xuất hiện của súng các loại. Giai đoạn này việc sử dụng các xe trận yếu kém. Lý do là các phương tiện cơ giới lúc đó chủ yếu là tàu hỏa, tàu thủy, không thích hợp với điều kiện dã chiến trên bộ. Các xe trận trước đây thì quá lạc hậu, mà chưa có động cơ mới để chế tạo các xe dã chiến. Đầu thế kỷ 20 đã phổ biến những hệ thống chiến đấu dùng súng chạy máy hơi nước lớn như các thiết giáp hạm hoặc đoàn tàu hỏa bọc thép.
Nhìn chung, đến hết Chiến tranh thế giới 1, xe trận dã chiến mạt vận. Những xe tăng cổ xuất hiện trong thời gian chiến tranh này đều rất dị kỳ, nhanh chóng bị thiết kế đúng đắn hơn hoặc loại bỏ.
Lúc này, xuất hiện rất nhiều phương án chế tạo các xe việt dã, có bọc thép, bắn được bộ binh hoặc công sự, vượt được qua các tuyến chiến hào. Các nỗ lực thiết kế xe bọc thép việt dã cho ra nhiều xe năm 1915.
Lúc này, ở châu Âu, pháo dã chiến field gun tỏ nhiều ưu việt, đây là loại pháo hỗ trợ, được đẩy theo trận đánh bám sát bộ binh. Ngày nay, field gun là lựu pháo bắn gián tiếp, hơi khác. (xem súng). Trong Thế chiến 1, vận hành pháo dã chiến khó khăn, vì lúc này pháo đã to nặng và xuất hiện nhiều pháo tầm xa.
Vì là các tàu (tank) nên xuất hiện cái tên tăng. Mà các xe đầu tiên cũng giống như thùng sắt thật.
Ngày nay, xe tăng dùng với nghĩa khác các xe ngày đấy cũng như yếu cầu thiết kế ban đầu, nhưng những xe ngày đấy vẫn được gọi là xe tăng trong sách vở.
Mark I
Xe tăng lần đầu tiên ra trận là Mark I trong chiến dịch sông Somme năm 1916, chạy xích miếng cứng. Xe có hai loại, xe tăng đực và xe tăng cái. Xe đực có súng thò ra còn xe cái có lỗ châu mai để người ngồi trong bắn. Xe đực có hai tháp pháo hai bên sườn. Xe có khả năng vượt hào tốt, lúc đó chưa hề có vũ khí bắn từ xa mục tiêu di động bọc giáp, dù giáp mỏng, chỉ chịu được đạn súng trường. Trận đầu tiên thắng lợi, người Anh phát triển một số lượng lớn xe này và các cải tiến.[1]
Xe có nhiều hạn chế, phần lớn sau đó được hoán cải, chỉ còn phiên bản Mark V tham chiến. Cuối chiến tranh những phiên bản Mark V* rất khác (có cả trung đội trên xe). Sau những bất ngờ đầu tiên quân Đức cũng nhận ra các nhược điểm của xe, bắt sống rất nhiều.
Những nhược điểm lớn của xe là chậm, động cơ hay hỏng, giáp yếu, súng quá yếu. Xe dễ bị pháo Đức bắn hỏng, dễ bị bộ binh Đức phá hủy và bắt sống.
Mark V* là xe kéo dài của Mark V tăng khả năng vượt hào. Kéo dài phần sau xe Mark V thêm 2 mét, xe vượt được hào 4 mét. Do xe rộng, người ta tổ chức cả trung đội trên xe, số lính này mang súng máy, xe như tòa thành di động. Nhược điểm lớn nhất của xe là số lính mang theo này bị nướng và hun gần chín. Xe ra trận lần đầu tháng 8-1918, tham gia Trận Amiens. Xe nặng thêm 5 tấn so với Mark V, thêm khẩi súng máy. Có 200 xe đực và 432 xe cái được đóng.
Trước đó có kiểu Tadpole Tail của Pháp thực hiện kéo dài đuôi xe Mark IV tháng 1 năm 1918, tại xưởng Trung tâm của Tập đoàn Tăng Pháp, chương trình thất bại.
Xe Mark V** dài hơn xe Mark V* 32 ft 5 in, động cơ Ricardo 225hp, sửa chữa những bất hợp lý trong thiết kế Mark V*. Xe ổn định, vượt hào tốt hơn. Nhưng không kịp chiến tranh.
Bản tiếp theo của Pháp là St Chamond, tham chiến 5 tháng 5/1917. Xe đưa súng về giữa, dùng súng nòng dài mạnh, có giảm xóc. Tuy súng có dài hơn trong bản cải tiến (tỷ lệ chiều dài nòng 36) nhưng vẫn là pháo bắn gián tiếp.[2] Xe có một nhược điểm là xích thấp và đầu đuôi dài, làm pháo hạm trên cạn hay bị mắc cạn khi vượt dốc.
Người ta thường phân biệt bản đầu tiên là St Chamond M16. Bản tiếp St Chamond M17 cải tiến giáp và mang pháo cal 36 M1897.
Người Pháp hoàn thành phát triển các pháo hạm trên cạn với Char 2C, đáng tiếc xe này không kịp tham chiến. Đây là xe tăng hạng nặng 69 tấn, đã có tháp chỉ huy, nhưng vẫn dùng giảm xóc cũ. Xe tuy không được tham chiến nhưng được nhiều nước sản xuất các phiên bản giống như Tiệp Khắc, Liên Xô.
A7V
Thế chiến 1 cho đến lúc gần bắt đầu thế chiến 2 không có xe tăng như định nghĩa ngày nay, nhưng người ta vẫn gọi những xe như vậy là xe tăng trong các sách vở. A7V là xe có thể làm nhiệm vụ đấu tăng (giống xe tăng ngày nay). Xe bọc thépA7VĐức là một thành công của kiểu Willie, trong khi người Anh thất bại. Abteilung 7 Verkehrswesen tức là phòng 7 Bộ Chiến tranh, phòng xe cộ. Xe xuất hiện tháng 10-1917. Xe đúng như mơ ước của người Anh, là một chiến hạm trên cạn. Nhưng lúc nó xuất hiện thì nước Đức đã yếu, không phục hồi được. Chỉ có 20 xe được đóng, Thiết Giáp Đức còn có thêm 78 xe chiến lợi phẩm Mark IV và Mark A, dùng khoảng 30 xe Mark IV[cần dẫn nguồn].
Xe có bộ giảm xóc và bánh nâng giống tàu hỏa, không gian chiến đấu rộng rãi, nhưng không gian cho thợ máy rất chật. Xe có 2 khoang chiến đấu ở đầu và đuôi, khoang chỉ huy trên buồng máy, súng máy được đặt ở cả hai khoang chiến đấu và chỉ huy, pháo đặt ở khoang mũi.
Trận đấu tăng đầu tiên diễn ra ngày 24 tháng 4 năm 1918, 3 xe Mark IV (2 cái 1 đực) và 3 xe A7V. 2 Xe Mark cái nhanh chóng rời trận địa với vài tổn thương. Đức đuổi theo, chiếc Mark đực sử dụng chiến thuật tồn tại sau đó 50 năm: chạy đều rồi dừng ngắn để bắn. Một xe AV7 hư hại nặng, không di chuyển được, 5 thành viên tổ lái chết, số còn lại rời xe, hai A7V còn lại rút, đến đêm người Đức kéo được xe hỏng về. Xe Mark đực cũng mất khả năng di chuyển.
Cùng ngày, một chiếc A7V rời trận đánh gặp 7 xe Mark, lần này thì A7V chứng tỏ nguyên tắc cũng được giữ 50 năm sau: người ta cần chế tạo xe tăng lớn nhất. Số lượng đông xe Mark không giúp được gì cho họ, A7V phá hủy 1 Mark, bắn hỏng 3 chiếc, 3 chiếc nữa bị pháoĐức bắn hỏng. Đây là trận đánh đầu tiên mà xe bọc thép cơ giới làm nhiệm vụ như xe tăng hiện đại. Tuy nhiên, trong chiến tranh Tây Ban Nha không thêm một trận đấu tăng nào nữa.
Renault FT-17
Mục tiêu của các pháo hạm trên cạn chủ yếu vẫn là bộ binh và công sự bán kiên cố, các công sự kiên cấo cần pháo lớn nhưng xe cộ ngày đó không mang được. Để chống bộ binh, các pháo hạm trên cạn nhanh chóng tỏ ra lạc hậu so với xe bọc thép chạy xích nhỏ, dã chiến hơn ô tô bọc thép. Chiếc Renault FT-17 như vậy, có 84 xe sản xuất trong năm 1917 nhưng 2697 xe trong chiến tranh, trong khi Char 2C không kịp tham chiến(và có 20 A7V). Xe rất nhỏ, có giáp như những xe lớn. Tổ lái rất it: chỉ có hai người. Tuy nhỏ nhưng xe cơ động vì hệ số dùng động cơ là 6 so với 3-4 của các xe lớn. Một ưu điểm nữa của xe nhỏ là nhíp ô tô. Ưu điểm lớn nhất của xe là số lượng khổng lồ. Xạ thủ thuận tiện với tháp pháo quay 360 độ như xe tăng ngày nay. Xe dùng rất rộng rãi.
Nhược điểm chính của xe là súng quá yếu. Xe sử dụng hai loại súng, đại liên 7,92mm và cối bắn góc thấp 37mm. Ngần đó đủ để chống bộ binh trong chiến hào, nhưng không thể bắn công sự kiên cố và càng không thể bắn mục tiêu xe cộ di động, hoàn toàn không có khả năng đấu tăng. Điều này càng làm xe này thành công vì nó xuất hiện cuối chiến tranh, Đức không chế tạo thêm được xe thiết giáp mới để đáu với nó. Nhờ danh tiếng khi đó, xe này và các phiên bản tiến được Pháp và Ba Lan dùng rộng rãi đến Thế chiến 2, dẫn đến việc hai nước này bại trận rất nhanh chóng. Xe cũng được Ý và Nga sản xuất.
Có lẽ xe Renault FT-17 điển hình cho ngày đó, trông rất giông xe tăng nhưng lại không có tính năng chính của xe tăng là đấu tăng.
Tuy đã thu nhỏ hơn nhiều so với Pháo Hạm Hoàng Gia trên cạn HMLS Centipede, nhưng người Anh nhận nhanh ra những tồi tệ của Mark I, nó rất hay hỏng và chậm do quá nặng, dẫn đến một số lượng xe lớn bị bắt. Cũng như người Pháp, Anh tìm cách chế tạo xe tăng chạy nhanh, nhẹ hơn, với yêu cầu chỉ cần mang được súng máy và cối bắn góc thấp. Thế hệ này là các xe tăng hạng trung Anh hồi Thế chiến 1 gồm Mark A, Mark B và Mark C. Mark A và Mark C là hai anh em cùng bố, thừa kế cấu trúc thân gầm của Little Willie. Xe trông như cái máy cày, chạy nhanh hơn FT-17 nhưng mỏng hơn. Xe bắt đầu được thiết kế tháng 10-1916, đến tháng 3-1917 đã có mẫu thử đầu tiên, nhưng đến tháng 3-1918 mới tham chiến, tuy nhiên đến tháng 8 năm đó xe mới thật sự hoàn thành. Đội thiết kế Tritton Chaser, William Tritton không có cộng sự Walter Gordon Wilson. Xe vượt hào kém nhưng đi nhanh, còn gọi là kỵ binh tăng.
Chia tay với William Tritton, Walter Gordon Wilson bắt tay vào thiết kế tăng của mình, cũng theo phương hướng thu nhỏ và đi nhanh hơn Mark I. Công việc bắt đầu tháng 7-1917. Tháng 9 năm 1918 mẫu thử đầu tiên xuất hiện, được đóng ở xưởng Metropolitan. Xe sửa chữa những nhược điểm của Mark A. Giáp tốt hơn (14mm) Mark A của đối thủ, tỷ số sử dụng động cơ cũng tốt hơn (5,6). Mang 7 súng máy 7,92 mm Hotchkiss. Tốc độ hơi thấp hơn Mark A (10 km/h), vẫn giống máy cày nhưng đỡ hơn, thật ra xe thừa kế phần thân gầm của Mark I. Xe có thân hình thoi, động cơ đặt sau (ngược với Mark A), vẫn chưa có tháp chỉ huy (cupola). Xe có một tháp chiến đấu vuông rộng phía trước, ngoài ra có các lỗ châu mai nhỏ ở cửa và hai sườn. Trái với những lạc quan ban đầu, xe bộc lộc một số nhược điểm, như súng máy vướng nhau phía trước. Đặc biệt xe hay trục trặc động cơ và truyền động, hầu như không thể sửa chữa ngoài mặt trận do không gian trong xe quá chật. Không thể sửa được xe khi lạnh nhưng khi nóng thì thợ sửa không thể chịu được. 700 chiếc được đặt hàng, 102 chiếc đã chế tạo. Xe đóng ở xưởng North British Locomotive tại Glasgow.
Xe chỉ tham chiến ở Nga trong nội chiến. Nhóm xe 3 chiếc được viện trợ cho Bạch Vệ ở Arkhangen vào tháng 8-1919. Sau này, một chiếc sa lầy, một chiếc lọt vào tay Bolsheviks (cả chiếc sa lầy sau cũng vậy), một chiếc hỏng.[3][4]
Bảng
Các xe bọc thép dã chiến tham chiến trong Thế chiến 1.
Bạch Vệ đã sử dụng ít nhất 62 Mk.V, 17 Mk.A, 3 Mk.B, 21 FT trong Nội chiến Nga (1918-1920), Hồng Quân bắt được 59 Mk.V, 17 Mk.A, 1 Mk.B, 14 FT.
Các xe khác
Vasiliy Mendeleyev (1886-1922), một kỹ sư Nga đưa ra một chương trình đầy tham vọng Tăng Mendeleyev mang pháo 120mm, rất giống các pháo tự hành về sau này. Thiết kế của ông đặt vấn đề treo yêu cầu rất cao, có đủ lò xo đẩy về và hãm thủy lực nhưng khác với hệ thống treo xe xích và ô tô hiện nay(có giằng ngang), na ná như ống thụt trước xe máy. Đây có lẽ là nỗ lực duy nhất thời đó thiết kế các pháo tự hành đánh công sự kiên cố nhưng thất bại.
LK I, KK II và LK III của Đức phát triển dần mang lại hình dáng xe tăng hiện đại, tháp pháo nhô lên cao và quay.
A7V/U Đức na ná giống Mark nhưng giáp dày, 2 tháp pháo sườn lớn.
A7V Sturmpanzer mang pháo 57mm nòng khá dài, có khả năng bắn mục tiêu di động khá. Đây là xe thiết kế theo yêu cầu đấu tăng đúng như nhiệm vụ xe tăng ngày nay, tuy nhiên không kịp sản xuất số lượng lớn trong chiến tranh.
Dạng tăng đầu tiên trên thế giới là chiếc Vezdehod I (Vezdehod=ВЕЗДЕХОД=xe việt dã, tiếng Anh không phiên âm được đầy đủ, chính xác phiên âm là vêzđêkhôđ) do Prohorovschikov thiết kế. Xe có 1 đại liên, tháp pháo 360 độ, cả xe nặng 4 tấn, động cơ 20 sức ngựa, tốc độ 25 km/h, một lái xe và một xạ thủ. Duy nhất một mẫu thử được trình diễn ngày 15-5-1915 tại Nga. Giáp xe quá yếu.
Xe sử dụng xích mềm, đây là một trong hai phương án xích ngày đó, ngày nay chúng ta dùng phương án xích miếng cứng Caterpillar ngày đó làm xe tăng máy kéo... Vì phương án xích mềm ngày đó dừng lại mà không còn phát triển nào tiếp theo. Đây cũng là xe bọc thép dã chiến dùng xích mềm duy nhất.
Một phương án thử nghiệm nữa là chiếc xe tăng lớn nhất thế chiến 1 do Lebedenko thiết kế, nặng 40 tấn, hai động cơ hơi nước mỗi cái 240 sức ngựa. Có hai tháp pháo trên và dưới, mỗi tháp pháo có hai lỗ châu mai trái và phải. Tsar Tank (tăng Sa Hoàng) có hai bánh xe đường kính 10 mét, có hai chiếc, nay vẫn còn xác, cũng năm 1915. Xe không vượt qua thử nghiệm. Người ta nhanh chóng nhận thấy xích miếng cứng thích hợp hợp hơn so với các phương án vượt địa hình khác. Xe khác với các loại tăng hiện nay do không dùng bánh xích mà bằng bánh xe tương tự như xe đạp.