Từ nguyên của "Kitô" là Χριστός (Khristos) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là "Đấng được xức dầu", dịch theo danh hiệu Messiah trong tiếng Hebrew. Trong tiếng Việt, người Công giáo dùng từ "Kitô" để gọi danh hiệu này của Giêsu, trong khi người Tin Lành thường dùng từ "Christ". Bên cạnh từ "Kitô" phiên âm qua tiếng Bồ Đào Nha được sử dụng bởi tín hữu Công giáo, còn có từ "Cơ Đốc" xuất phát từ chữ Nho (基督) và thường được tín hữu Tin Lành sử dụng. Ngoài ra, một số người cũng dùng cách gọi Thiên Chúa giáo để chỉ Công giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung.
Theo Kinh thánh, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. Ông Adam và bà Eva không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của "cây biết điều thiện điều ác" (trái cấm)[33] nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi Vườn địa đàng.[34] Hai người này truyền tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Bởi loài người mang tội, Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và chịu khổ hình để loài người được hòa giải với Thiên Chúa.
Vậy tâm điểm việc cứu rỗi của Kitô giáo là Giêsu, do đó trọng tâm của cuộc sống Kitô hữu là niềm xác tin rằng Giêsu là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng Messiah.[35][36] Danh hiệu "Messiah" có nguồn gốc từ tiếng Do Tháiמָשִׁיחַ, māšiáħ, nghĩa là "đấng được xức dầu", chuyển ngữ sang tiếng Hy Lạp là Χριστός, Khristos.[37]
Kitô hữu tin rằng, là Đấng Messiah, Giêsu được Thiên Chúa xức dầu để tể trị và cứu rỗi nhân loại, Giêsu đến để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah trong Cựu Ước. Trọng tâm của đức tin Kitô giáo là qua sự chết và phục sinh của Giêsu, con người tội lỗi được phục hòa với Thiên Chúa, nhờ đó mà nhận lãnh sự cứu rỗi và lời hứa được hưởng sự sống đời đời.[38][39]
Trong khi những tranh luận thần học về bản thể của Giêsu vẫn đang tiếp diễn, thì phần lớn Kitô hữu tin rằng Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Giêsu "là Thiên Chúa và là con người" trong ý nghĩa trọn vẹn của cả hai bản tính. Vì Giêsu là người nên phải trải qua những đau khổ và bị cám dỗ như con người bình thường, nhưng không hề phạm tội. Vì là Thiên Chúa, Giêsu đánh bại quyền lực sự chết và sống lại từ kẻ chết. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho Giêsu sống lại từ cõi chết,[40] đặt Giêsu ngồi bên hữu của Chúa Cha[41] và Ngài sẽ trở lại[42] để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah như sự phục sinh, sự phán xét sau cùng và sự thiết lập Vương quốc của Thiên Chúa.
Theo Tân Ước, Giêsu tự xưng mình là Đấng Messiah mà dân Do Thái vẫn hằng mong đợi, nhưng đã bị nhóm lãnh đạo Tôn giáo và Dân sự cũng như dân chúng chối từ và bị xem như là chống lại Đền thờ và luật lệ thời đó.[43][44][45][46] Giêsu nói với tổng trấn Pontius Pilatus rằng "Ta là đường đi, chân lý và sự sống. Chẳng bởi Ta thì không ai được đến với Cha"[47]. Ngài bị buộc tội phạm thượng do dám gọi Thiên Chúa là Cha và bị kết án tử hình bởi chính quyền La Mã vào năm 30. Tuy nhiên Giêsu được Pontius Pilatus, tổng trấn người La Mã, gọi là "Vua của dân Do Thái".
Theo các sách Phúc âm, người La Mã buộc tội Giêsu vì muốn xoa dịu sự bất bình của giới cầm quyền Do Thái, nhưng một số học giả cho rằng đó là cách mà Đế chế La Mã trừng phạt những người chống đối họ. Kitô hữu tin rằng Cựu Ước đã tiên báo cái chết và sự sỉ nhục mà Giêsu phải chịu như đã chép trong Tân Ước. Sách Isaiah ngụ ý rằng Giêsu bị vả, nhổ, đấm vào mặt,[48] bị đánh bằng roi[49] cũng như bị sỉ nhục.
Kitô hữu xem sự phục sinh của Giêsu là nền tảng của đức tin và là biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.[50] Theo Tân Ước, Giêsu là tâm điểm của Kitô giáo, bị đóng đinh trên thập tự giá, chết và mai táng trong mộ, đến ngày thứ ba thì sống lại.[51] Theo ký thuật của Tân Ước, sau khi sống lại, Giêsu, trong những lần khác nhau tại những địa điểm khác nhau, đã đến gặp mười một sứ đồ và các môn đồ, trong đó có lần xuất hiện trước sự chứng kiến của "hơn năm trăm người",[52] sau đó thì về trời.
Các sứ đồ của Giêsu là nhân chứng về cuộc đời, lời giảng và sự sống lại của Giêsu. Ngoài ra còn có nhiều môn đồ (đến 70 người) trong đó có James, Mark, Luca, Maria Madalena,... những người này theo Giêsu trong các cuộc hành trình và họ chứng kiến khi Giêsu giảng dạy và làm nhiều phép lạ. Sau khi Giêsu bị đóng đinh, các sứ đồ và các môn đệ khác công bố rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và họ khởi sự rao giảng thông điệp mới. Các sứ đồ và môn đệ này đã viết các sách Phúc âm và các Thư tín.
Trong số 27 sách của Tân Ước, nhiều quyển được cho là viết bởi Phaolô. Ông cũng là tác giả của hầu hết mười bốn thư tín[53][54][55] và một số truyền thuyết cho rằng ông cũng là tác giả của Thư gửi tín hữu Do Thái.[56]Phúc âm Luca và sách Sách Công vụ Tông đồ được cho là viết bởi Luca,[57][58] người chịu ảnh hưởng trực tiếp của Phaolô. Phaolô là môn đồ của Gamaliel, một nhân vật có thanh thế trong tòa công luận. Phaolô được xem như là nhà truyền giáo quan trọng nhất rao giảng thông điệp Kitô cho thế giới bên ngoài.
Kitô giáo đã phát triển trong thế kỷ thứ nhất vốn là Do Thái giáoĐền thờ thứ hai đã bị Hy Lạp hóa.[59][60][61] Kitô giáo Do Thái nhanh chóng thu hút những người ngoại bang kính sợ Đức Chúa Trời, đặt ra vấn đề cho quan điểm tôn giáo Do Thái của nó, vốn nhấn mạnh vào việc tuân thủ chặt chẽ các điều răn của người Do Thái. Sứ đồ Phao-lô đã giải quyết vấn đề này bằng cách nhấn mạnh rằng sự cứu rỗi bởi đức tin nơi Giêsu, và cái chết và sự phục sinh của Ngài.[62] Việc ông rời bỏ phong tục Do Thái đã dẫn đến việc thành lập Kitô giáo như một tôn giáo độc lập.[63][64][65]
Kitô giáo tiền Nicaea là thời kỳ sau Kitô giáo Do Thái cho đến Công đồng Nicaea I vào năm 325. Vào đầu thời kỳ tiền Nicaea, đức tin Kitô giáo đã lan rộng khắp Tây Âu và Lưu vực Địa Trung Hải, đến Bắc Phi. Một cấu trúc Giáo hội chính thức hơn đã phát triển từ các cộng đồng sơ khai, và nhiều học thuyết đã phát triển.
Những bức thư của Sứ đồ Phao-lô gửi cho các cộng đồng sơ khai ở Rome, Hy Lạp và Tiểu Á đã được lưu hành vào cuối thế kỷ thứ nhất.[68] Đến đầu thế kỷ thứ 3, đã tồn tại một tập hợp các tác phẩm Kitô giáo ban đầu tương tự như Tân Ước hiện tại,[69] mặc dù vẫn còn những tranh cãi về tính chính tắc. Đến thế kỷ thứ 4, đã tồn tại sự nhất trí trong Giáo hội Latin liên quan đến các văn bản kinh điển được đưa vào quy điển Tân Ước,[70] và đến thế kỷ thứ 5, các Giáo hội Đông phương, với một số ngoại lệ, đã chấp nhận Khải Huyền và do đó đã hòa hợp với nhau về vấn đề kinh điển.[71]
Chấp nhận ở Đế Chế La Mã
Vua Tiridates III đã biến Kitô giáo trở thành quốc giáo ở Armenia từ năm 301 đến năm 314.[72][73][74][75][76][77][78][79]Constantine I đã tiếp xúc với Kitô giáo khi còn trẻ, và trong suốt cuộc đời, sự ủng hộ của ông đối với tôn giáo ngày càng lớn, đỉnh điểm là lễ rửa tội trên giường bệnh của ông.[80] Trong triều đại của ông, cuộc đàn áp Kitô hữu do nhà nước hậu thuẫn đã chấm dứt với Sắc lệnh khoan dung năm 311 và Sắc lệnh Milan năm 313. Chịu ảnh hưởng của cố vấn Mardonius, cháu trai của Constantine là Julian cố gắng đàn áp Kitô giáo nhưng không thành.[81]
Vào ngày 27 tháng 2 năm 380, Theodosius I, Gratian và Valentinian II đã thành lập Công đồng Nicaea I với tư cách là Giáo hội của Đế chế La Mã.[82] Constantine cũng có công trong việc triệu tập Công đồng Nicaea I vào năm 325, nhằm tìm cách giải quyết thuyết Arian và xây dựng Tín điều Nicene,[83] vẫn được sử dụng trong Công giáo, Chính thống giáo Đông phương, Lutheran, Anh giáo và nhiều giáo hội Tin lành khác.[84][85]
Thời Trung cổ đã mang lại những thay đổi lớn trong giáo hội. Giáo hoàng Grêgôriô I đã cải cách mạnh mẽ cơ cấu và cách điều hành giáo hội.[87] Vào đầu thế kỷ thứ 8, iconoclasm đã trở thành một vấn đề gây chia rẽ, khi nó được các hoàng đế Byzantine bảo trợ. Công đồng Nicaea II cuối cùng đã tuyên bố ủng hộ các biểu tượng.[88] Vào đầu thế kỷ thứ 10, tu viện Kitô giáo phương Tây tiếp tục được làm mới nhờ sự lãnh đạo của tu viện vĩ đại Benedictine ở Cluny.[89]
Ở phương Tây, từ thế kỷ 11 trở đi, một số trường nhà thờ cũ đã trở thành trường đại học. Trước đó, giáo dục đại học là lĩnh vực của các trường thánh đường Kitô giáo hoặc các trường tu viện, do các tu sĩ nam nữ lãnh đạo. Những trường đại học mới này đã mở rộng chương trình giảng dạy để bao gồm các chương trình học thuật dành cho giáo sĩ, luật sư, công chức và bác sĩ.[90] Trường đại học thường được coi là một tổ chức có nguồn gốc từ Kitô giáo thời Trung cổ.[91][92][93]
Chủ nghĩa dân tộc Kitô giáo nổi lên trong thời đại này, trong đó các Kitô hữu cảm thấy thôi thúc phải phục hồi những vùng đất mà Kitô giáo đã từng phát triển trong lịch sử.[94] Từ năm 1095 dưới triều đại giáo hoàng Urban II, cuộc Thập tự chinh thứ nhất đã được phát động.[95] Đây là một loạt các chiến dịch quân sự ở Thánh địa và các nơi khác, được khởi xướng để đáp lại lời cầu xin từ Hoàng đế ByzantineAlexios I về sự trợ giúp chống lại sự bành trướng của người Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman). Các cuộc Thập tự chinh cuối cùng đã thất bại trong việc ngăn chặn sự xâm lược của người Hồi giáo và thậm chí còn góp phần gây ra sự thù địch của Kitô giáo với việc cướp phá Constantinopolis trong cuộc Thập tự chinh thứ tư.[96]
Kitô giáo đã trải qua xung đột nội bộ giữa thế kỷ thứ 7 và thế kỷ 13 dẫn đến sự ly giáo Đông–Tây giữa nhánh Giáo hội Công giáo và nhánh Chính thống giáo Đông phương. Hai bên bất đồng về một số vấn đề hành chính, phụng vụ và giáo lý, nổi bật nhất là sự phản đối của Chính thống giáo Đông phương đối với uy quyền tối cao của Giáo hoàng.[97][98]Công đồng Lyon II và Công đồng Florence đã cố gắng hợp nhất hai giáo hội, nhưng trong cả hai trường hợp, Chính thống giáo Đông phương đều từ chối thực hiện các quyết định, và hai giáo hội chính vẫn còn ly giáo cho đến ngày nay.
Thời kỳ Phục hưng đã mang lại mối quan tâm mới đối với việc học cổ điển. Martin Luther đã công bố 95 luận đề chống lại việc buôn bán ân xá.[99] Các bản in nhanh chóng lan rộng khắp châu Âu. Vào năm 1521, Sắc lệnh về Giun (Edict of Worms) đất đã lên án và rút phép thông công cho Luther và những người theo ông, dẫn đến sự chia rẽ của Kitô giáo phương Tây thành nhiều nhánh.[99] Các nhà cải cách khác như Zwingli, Oecolampadius, Calvin, Knox và Arminius còn chỉ trích việc giảng dạy và thờ phượng của Công giáo. Những thách thức này đã phát triển thành phong trào gọi là Tin Lành, phủ nhận quyền tối cao của giáo hoàng, vai trò của truyền thống, bảy bí tích, và các học thuyết và thực hành khác.[99]
Thomas Müntzer, Andreas Karlstadt và các nhà thần học khác cho rằng cả Giáo hội Công giáo và những lời thú nhận của cải cách Magisterial đều là tham nhũng. Hoạt động của họ đã mang lại cuộc Cải cách Cấp tiến, sự ra đời của nhiều Trùng tẩy phái khác nhau.
Một phần để đáp lại Cải cách Tin lành, Giáo hội Công giáo đã tham gia vào một quá trình cải cách và đổi mới đáng kể, được gọi là Cải cách Công giáo.[101]Công đồng Trent đã làm sáng tỏ và tái khẳng định giáo lý Công giáo. Trong những thế kỷ tiếp theo, sự cạnh tranh giữa Công giáo và Tin lành trở nên phức tạp sâu sắc với các cuộc đấu tranh chính trị giữa các quốc gia châu Âu.[102] Khắp châu Âu, sự chia rẽ do cuộc cải cách gây ra đã dẫn đến sự bùng nổ bạo lực tôn giáo và việc thành lập các giáo hội nhà nước riêng biệt ở châu Âu. Giáo hội Luther lan rộng vào các vùng phía bắc, trung tâm và phía đông của Đức, Livonia và Scandinavia ngày nay. Anh giáo được thành lập ở Anh vào năm 1534. Chủ nghĩa Calvin và các biến thể của nó, chẳng hạn như Chủ nghĩa Trưởng lão, đã được đem đến ở Scotland, Hà Lan, Hungary, Thụy Sĩ và Pháp. Chủ nghĩa Arminian đã thu hút được nhiều người theo dõi ở Hà Lan và Frisia. Cuối cùng, những khác biệt này đã dẫn đến sự bùng nổ của các cuộc xung đột trong đó tôn giáo đóng vai trò then chốt. Chiến tranh Ba mươi năm, Nội chiến Anh và Chiến tranh Tôn giáo Pháp là những ví dụ nổi bật. Những sự kiện này đã làm gia tăng cuộc tranh luận của các Kitô hữu về bách hại và khoan dung.[103]
Những thay đổi trong Kitô giáo trên toàn thế giới trong thế kỷ XX là rất lớn, kể từ năm 1900, Kitô giáo đã lan rộng nhanh chóng ở nam bán cầu và các nước thuộc thế giới thứ ba.[109] Cuối thế kỷ XX, phương Tây không còn là người mang tiêu chuẩn chính của Kitô giáo.
Kitô giáo ngày nay
Ngày nay, Kitô giáo là tôn giáo có đông tín hữu nhất thế giới,[17][18] ước tính khoảng 2,6 tỷ người xưng Kitô hữu,[20] chia làm nhiều nhánh, bao gồm hơn 1,1 tỉ người Công giáo,[110] khoảng 800 triệu người theo các hệ phái Kháng Cách (trong đó có 85 triệu tín hữu Anh giáo), 300 triệu người Chính thống giáo, và những giáo hội "ngoại vi" (Nhân chứng Jehovah, Giáo hội Cơ Đốc Phục lâm An thất nhật, Giáo hội Mormon...) có hơn 40 triệu tín hữu. Các giáo phái này tự nhận mình thuộc Kitô giáo nhưng họ không được công nhận bởi cộng đồng Kitô giáo bởi các học thuyết không chính thống của họ.
Tuy là tôn giáo lớn nhất thế giới[17][18] và đang duy trì nhiều nguồn lực cho việc truyền giáo, mức độ tăng trưởng của Kitô giáo chỉ xấp xỉ mức chung của thế giới. Theo dự đoán, vào nửa sau thế kỷ 21, số lượng dân số Hồi giáo sẽ vượt qua Kitô giáo để trở thành tôn giáo lớn nhất thế giới.[111] Tuy nhiên nghiên cứu được thực hiện bởi Đại học St. Mary ước tính khoảng 10,2 triệu người Hồi giáo cải đạo sang Kitô giáo vào năm 2015.[112][113]
Tại Hoa Kỳ và châu Âu, trào lưu thần học tự do góp phần phát triển tình trạng thế tục hoá trong toàn xã hội. Nhiều Kitô hữu ngưng thực hành các bổn phận tôn giáo,[114] mỗi năm chỉ đến nhà thờ vài lần vào những dịp lễ lớn, hôn lễ hoặc tang lễ. Nhiều người trong số họ lớn lên trong những gia đình mà các giá trị Kitô giáo không còn được xem trọng.[115] Một mặt họ tiếp tục buộc mình vào các giá trị cổ truyền vì lý do bản sắc, mặt khác ảnh hưởng của chủ nghĩa thế tục phương Tây và sự sao lãng do nhịp sống hiện đại bứt giật họ ra khỏi ảnh hưởng còn sót lại của Kitô giáo truyền thống.[114][115] Tại các quốc gia Kitô giáo, nhiều người trở nên bất khả tri[116] hoặc có thái độ dửng dưng tôn giáo. Dân số Kitô giáo không giảm ở Brazil, miền nam Hoa Kỳ,[117] và tỉnh Alberta, Canada,[118] nhưng tỷ lệ phần trăm đang giảm. Kể từ những năm 90, tỷ lệ người theo Kitô giáo đã ổn định hoặc thậm chí tăng lên ở các nước Trung và Đông Âu.[119] Tại Đông Âu và Nga, đã và đang diễn ra quá trình phấn hưng. Sau nhiều thập kỷ hưng thịnh của thuyết vô thần, nhiều người bắt đầu quan tâm đến Kitô giáo[120] cũng như các tôn giáo khác.
Kitô hữu xem Kitô giáo là sự kế thừa và hoàn chỉnh của Do Thái giáo.[150][151] Kitô giáo mang theo mình nhiều điều từ thần học và lễ nghi của Do Thái giáo như thuyết độc thần, niềm tin vào Đấng Messiah cùng với một vài hình thức thờ phượng như cầu nguyện, xướng đọc Kinh Thánh, chức vị tư tế (dù hầu hết người Kháng Cách tin rằng chức vị tư tế được ban cho tất cả tín hữu), và ý tưởng cho rằng sự thờ phượng trên đất là "hình bóng" cho sự thờ phượng trên thiên đàng.
Những xác tín căn cốt của Kitô giáo tập chú vào sự nhập thể làm người, sự đền tội cho nhân loại, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Giêsu để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết.[152] Nhiều Kitô hữu tin rằng sự tuyển chọn mà Thiên Chúa dành cho dân Do Thái được ứng nghiệm trọn vẹn qua Giêsu: người Do Thái nào không chấp nhận Giêsu không còn là người được chọn vì họ đã khước từ Ngài như là Đấng Messiah và Con Thiên Chúa. Quan điểm này đang được làm giảm nhẹ hay ngay cả loại trừ tại một số giáo hội nơi người Do Thái được thừa nhận là có một địa vị đặc biệt vì cớ giao ước của Thiên Chúa dành cho dân tộc này.
Trọng tâm của Kitô giáo đặt vào yếu tố Thiên Chúa sai Con Một của mình đến thế gian để cứu nhân loại, tạo ra sự khác biệt lớn lao giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác, vì các tôn giáo ấy thường nhấn mạnh đến vai trò của con người tự nỗ lực cho sự cứu độ của bản thân mình.
Nền thần học được xác lập vững chắc từ ban đầu và được chấp nhận rộng rãi giữa ba nhánh chính của Kitô giáo – Công giáo, Chính thống giáo và Kháng Cách – khẳng định những xác tín căn bản của Kitô giáo bao gồm:
Thiên Chúa là Ba Ngôi hằng có đời đời, là thực thể vĩnh cửu duy nhất, hiện hữu trong ba ngôi vị: Chúa Cha, Chúa Con (Ngôi Lời trở thành xác thịt là Giêsu Kitô) và Chúa Thánh Linh.[153]
Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người, cả hai bản tính đều trọn vẹn trong Ngài.
Maria (Ma-ri-a hay Ma-ri), mẹ của Giêsu, người cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, Đấng vô hạn và vĩnh cửu đã được hình thành trong thân thể của bà bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Ngài nhận lãnh từ Maria trí tuệ và ý chí con người và mọi điều khác như một đứa trẻ bình thường nhận lãnh từ mẹ mình.
Giêsu là Đấng Messiah mà người Do Thái vẫn hằng mong đợi, là Đấng kế thừa ngai Vua David. Ngài ngự bên hữu Chúa Cha để trị vì với tất cả quyền bính vĩnh cửu.[154] Ngài là niềm hy vọng, là Đấng biện hộ và là Đấng phán xét toàn thể nhân loại. Hội thánh có thẩm quyền và bổn phận rao giảng Phúc âm trên khắp thế giới.
Giêsu không bao giờ phạm tội. Qua cái chết và sự sống lại của Ngài, tín hữu được tha thứ tội lỗi và được hòa giải với Thiên Chúa. Tín hữu chịu lễ rửa tội như là biểu tượng cho sự cùng chết và cùng sống lại với Chúa Kitô để nhận lãnh sự sống mới. Qua đức tin, họ nhận lãnh lời hứa sẽ sống lại từ kẻ chết để được sống đời đời. Trong danh của Chúa Kitô, Chúa Thánh Linh ngự vào lòng tín hữu, ban cho họ hi vọng, dẫn họ vào sự hiểu biết chân xác về Thiên Chúa và ý chỉ của Ngài cũng như giúp họ tăng trưởng trong đời sống thánh khiết.
Giêsu sẽ trở lại[155] để phán xét toàn thể nhân loại, để tiếp rước những người tin Ngài vào cuộc sống vĩnh cửu kề cận Thiên Chúa.
Nhiều Kitô hữu xem Kinh Thánh là "lời của Thiên Chúa".[156][157][158] Thuật từ này cũng có thể đề cập đến Giêsu là "Ngôi Lời của Thiên Chúa". Nhiều tín hữu cũng nhìn nhận Kinh Thánh là quyển sách có thẩm quyền, được soi dẫn bởi Chúa Thánh Linh nhưng được viết bởi con người. Vì các quan điểm khác biệt về sự linh hứng của Kinh Thánh mà nhiều Kitô hữu bất đồng với nhau về mức độ chân xác cũng như về phương cách giải thích Kinh Thánh.
Đức tin Kitô giáo được đúc kết trong các tín điều, quan trọng nhất là Tín điều Các Sứ đồ và Tín điều Nicaea. Các bản tín điều này được hình thành trong vòng vài thế kỷ sau công nguyên nhằm phản bác các học thuyết dị giáo. Dù vẫn còn tranh luận về vài điểm khác nhau của các bản tín điều, chúng được dùng rộng rãi để bày tỏ các xác tín căn bản của nhiều Kitô hữu.
Kitô giáo đóng vai trò nổi bật trong việc định hình nền văn minh phương Tây.[159][160][161]
Văn hóa phương Tây trải qua lịch sử đã hầu như tương đương với văn hóa Kitô giáo. Các ý niệm về "châu Âu" và "Thế giới phương Tây" được liên hệ hết sức mật thiết với "Kitô giáo và Thế giới Kitô giáo", nhiều người thậm chí còn coi Kitô giáo là mối liên kết tạo nên một căn tính Âu châu thống nhất.[162] Mặc dù văn hóa phương Tây trong thời kỳ đầu bao gồm một số tôn giáo đa thần dưới các đế quốc Hy Lạp và La Mã nhưng khi chính quyền trung ương La Mã suy yếu, vị thế của Giáo hội Công giáo là định chế kiên vững duy nhất tại châu Âu.[163] Trong tình trạng bất ổn khi đế quốc dần suy tàn, các tu viện xuất hiện kịp thời đã bảo tồn ngôn ngữ viết và một phần truyền thống cổ điển.[164] Cho tới Thời kỳ Khai sáng,[165] văn hóa Kitô giáo đã dẫn dắt triết học, văn học, nghệ thuật, âm nhạc và khoa học.[163][166] Cách riêng, Kitô giáo sau này đã phát triển các chuyên ngành tương ứng của mình.
Các Kitô hữu có rất nhiều đóng góp trong phạm vi rộng lớn và đa dạng các lĩnh vực, gồm khoa học, nghệ thuật, chính trị, văn học và kinh doanh.[188] Theo 100 Years of Nobel Prizes, xem xét các giải Nobel được trao trong giai đoạn từ 1901 tới 2000 cho thấy rằng có 65,4% Khôi nguyên Nobel xác định tôn giáo của mình là Kitô giáo thuộc các hệ phái.[189]
Hậu Kitô giáo là thuật ngữ dùng để chỉ sự suy giảm của Kitô giáo trong thế kỷ 20 và 21, đặc biệt là tại châu Âu, Canada, Úc và ở mức độ ít hơn tại các nước Viễn Nam của châu Mỹ, có liên quan tới thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại. Nó đề cập đến việc Kitô giáo mất vị trí độc tôn trong các giá trị và thế giới quan so với các xã hội Kitô giáo trước đây.
Các Kitô hữu văn hóa là những người thế tục có di sản Kitô giáo, có thể không tin theo các giáo lý nhưng còn duy trì thiện cảm với văn hóa đại chúng, nghệ thuật và âm nhạc Kitô giáo nên vẫn còn mối liên hệ. Thuật ngữ này còn dùng trong việc phân biệt các nhóm chính trị trong khu vực đa tôn giáo.
^ abcJan Pelikan, Jaroslav (13 tháng 8 năm 2022). “Christianity”. Encyclopædia Britannica. It has become the largest of the world's religions and, geographically, the most widely diffused of all faiths.
^Orlandis, Jose, A Short History of the Catholic Church. Scepter Publishers (1993) ISBN1-85182-125-2
^Religions in Global Society. p. 146, Peter Beyer, 2006
^Cambridge University Historical Series, An Essay on Western Civilization in Its Economic Aspects, p. 40: Hebraism, like Hellenism, has been an all-important factor in the development of Western Civilization; Judaism, as the precursor of Christianity, has indirectly had had much to do with shaping the ideals and morality of western nations since the christian era.
^Caltron J.H Hayas, Christianity and Western Civilization (1953), Stanford University Press, p. 2: "That certain distinctive features of our Western civilization—the civilization of western Europe and of America—have been shaped chiefly by Judaeo — Graeco — Christianity, Catholic and Protestant."
^Fred Reinhard Dallmayr, Dialogue Among Civilizations: Some Exemplary Voices (2004), p. 22: Western civilization is also sometimes described as "Christian" or "Judaeo-Christian" civilization.
^Z. Kratochvíl, Studie o křesťanství a řecké filosofii, tr. 34.
^The Blackwell Companion to The New Testament bởi David E. Aune ISBN1405108258 trang 9 "While seven of the letters attributed to Paul are almost universally accepted as authentic (Romans, 1 and 2 Corinthians, Galatians, Philippians, 1 Thessalonians, Philemon), four are just as widely judged to be pseudepigraphical, i.e. written by unknown authors under Paul's name: Ephesians and the Pastorals (1 and 2 Timothy and Titus).
^Eerdmans Commentary on the Bible bởi James D. G. Dunn (Nov 19, 2003) ISBN0802837115 trang 1274 "There is general scholarly agreement that seven of the thirteen letters beariing Paul's name are authentic, but his authorship of the other six cannot be taken for granted... Romans, 1 and 2 Corinthians, Galatians, Philippians, 1 Thessalonians and Philemon are certainly Paul's own."
^Wylen, Stephen M., The Jews in the Time of Jesus: An Introduction, Paulist Press (1995), ISBN0-8091-3610-4, Pp. 190–192.
^Dunn, James D.G., Jews and Christians: The Parting of the Ways, A.D. 70 to 135, Wm. B. Eerdmans Publishing (1999), ISBN0-8028-4498-7, Pp. 33–34.
^Boatwright, Mary Taliaferro & Gargola, Daniel J & Talbert, Richard John Alexander, The Romans: From Village to Empire, Oxford University Press (2004), ISBN0-19-511875-8, p. 426.
^Oscar Cullmann, The Earliest Christian Confessions, trans. J. K. S. Reid (London: Lutterworth, 1949)
^Everett Ferguson, "Factors leading to the Selection and Closure of the New Testament Canon", in The Canon Debate. eds. L. M. McDonald & J. A. Sanders (Hendrickson, 2002) pp. 302–303; cf. Justin Martyr, First Apology 67.3
^Ancient Rome: The Rise and The Fall of An Empire). Tập 5: Constantinople. Được trình bày bởi History, 2009
^McTavish, T. J. (2010). A Theological Miscellany: 160 Pages of Odd, Merry, Essentially Inessential Facts, Figures, and Tidbits about Christianity. Thomas Nelson. ISBN978-1-4185-5281-7. The Nicene Creed, as used in the churches of the West (Anglican, Catholic, Lutheran, and others), contains the statement, "We believe [or I believe] in the Holy Spirit, the Lord, the giver of life, who proceeds from the Father and the Son."
^Verger, Jacques. "The Universities and Scholasticism," trong The New Cambridge Medieval History: Volume V k. 1198–k. 1300. Cambridge University Press, 2007, 257.
^Rüegg, Walter: "Foreword. The University as a European Institution", trong: A History of the University in Europe. Vol. 1: Universities in the Middle Ages, Cambridge University Press, 1992, ISBN0-521-36105-2, pp. XIX–XX
^Parole de l'Orient, Volume 30. Université Saint-Esprit. 2005. tr. 488.
^Religion and the State in Russia and China: Suppression, Survival, and Revival, bởi Christopher Marsh, p. 47. Continuum International Publishing Group, 2011.
^Inside Central Asia: A Political and Cultural History, bởi Dilip Hiro. Penguin, 2009.
^Adappur, Abraham (2000). Religion and the Cultural Crisis in India and the West. Intercultural Publications. ISBN978-81-85574-47-9. Forced Conversion under Atheistic Regimes: It might be added that the most modern example of forced "conversions" came not from any theocratic state, but from a professedly atheist government—that of the Soviet Union under the Communists.
^Geoffrey Blainey (2011). A Short History of Christianity; Viking; p. 494
^Miller, Duane Alexander (2016). Living among the Breakage: Contextual Theology-Making and Ex-Muslim Christians. Edinburgh University Press. tr. 435–481. ISBN9781498284172.
^ abPutnam, Democracies in Flux: The Evolution of Social Capital in Contemporary Society, p. 408.
^ abPeter Marber, Money Changes Everything: How Global Prosperity Is Reshaping Our Needs, Values and Lifestyles, p. 99.
^Werner Ustorf, "A missiological postscript", in Hugh McLeod, Werner Ustorf (editors), The Decline of Christendom in Western Europe, 1750-2000, Cambridge University Press (2003), 219-220.
^Henkel, Reinhard và Hans Knippenberg: "The Changing Religious Landscape of Europe", đã sửa bởi Knippenberg, xuất bản bởi Het Spinhuis, Amsterdam 2005 ISBN90-5589-248-3, trang 7-9
^“Pentecostalism: Massive Global Growth Under the Radar”. Pulitzer Center. 9 tháng 3 năm 2015. Today, one quarter of the two billion Christians in the world are Pentecostal or Charismatic. Pentecostalism is the fastest growing religion in the world.
^Yakobson, Alexander; Rubinstein, Amnon (2009). Israel and the Family of Nations: The Jewish Nation-state and Human Rights. Taylor & Francis. tr. 215. ISBN9780415464413. Thus the Constitution of Costa Rica, which is considered a model of stable democracy in Latin America, states in Article 75: The Catholic and Apostolic Religion is the religion of the State, which contributes to its maintenance, without preventing the free exercise in the Republic of other forms of worship that are not opposed to universal morality or good customs.
^Shadid, W. A. R. (1 tháng 1 năm 1995). Religious Freedom and the Position of Islam in Western Europe. Peeters Publishers. tr. 11. ISBN9789039000656. Denmark has declared the Evangelical Lutheran church to be that national church (par. 4 of the Constitution), which corresponds the fact that 91.5% of the population are registered members of this church. This declaration implies that the Danish State does not take a neutral stand in religious matters. Nevertheless, freedom of religion has been incorporated in the Constitution. Nielsen (1992, 77) gives a short description of the position of the minority religious communities in comparison to that of the State Church: The Lutheran established church is a department of the state. Church affairs are government by a central government ministry, and clergy are government employees. The registration of births, deaths and marriages falls under this ministry of church affairs, and normally speaking the local Lutheran pastor is also the official registrar. The other small religious communities, viz. Roman Catholics, Methodists, Baptists and Jews, have the constitutional status of 'recognised communities of faith'. ... Contrary to the minority religious communities, the Lutheran Church is fully financed by the Danish State.
^“Hiến pháp Georgia”. www.parliament.ge. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2023. Điều 9(1&2) và 73(1a1)
^Jiang, Qing (2012). A Confucian Constitutional Order. Princeton University Press. tr. 221. ISBN9780691154602. The features of the state affect the essence of the state, but the key term is that of historical identity, hence this chapter concentrates on historical identity as the essence of the state, though at times some of the other features will also be referred to. For instance, ancient Greece has now become an Orthodox Christian state. Ancient Persia (Iran) has now become a Muslim state, and the ancient Buddhist states of the Silk Route have also become Islamic states.
^Enyedi, Zsolt; Madeley, John T.S. (2 tháng 8 năm 2004). Church and State in Contemporary Europe. Routledge. tr. 119. ISBN9781135761417. Greece is the only Orthodox country in the EU.
^“Hiến pháp Hungary”(PDF). www.constituteproject.org. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2023.
^Melton, J. Gordon (1 tháng 1 năm 2005). Encyclopedia of Protestantism. Infobase Publishing. tr. 283. ISBN9780816069835.
^Fox, Jonathan (19 tháng 5 năm 2008). A World Survey of Religion and the State. Cambridge University Press. tr. 119. ISBN9781139472593. Liechtenstein's constitution designates the Catholic Church as the state Church and guarantees religious freedom. Article 38 provides protection for the property rights of all religious institutions and states that "the administration of church property in the parishes shall be regulated by a specific law; the agreement of church authorities shall be sought before the law is enacted." Article 16 states that religious instruction in public schools "shall be given by church authorities."
^Gozdecka, Dorota Anna (27 tháng 8 năm 2015). Rights, Religious Pluralism and the Recognition of Difference: Off the Scales of Justice. Routledge. tr. 59. ISBN9781317629801. According to Section 2 of the Maltese Constitution from the year 1964, amended in 1994 and 1996, the state church of Malta is the Roman Catholic Church. According to the same section it is endowed with a legal right to determine moral rights and wrongs and is privileged in public education: 1. The religion of Malta is the Roman Catholic Apostolic Religion. 2. The authorities of the Roman Catholic Apostolic Church have the duty to teach which principles are right and which are wrong. Religious teaching of the Roman Catholic Apostolic Faith shall be provided in all State schools as part of compulsory education.
^Paul Pavlovich, The History of the Serbian Orthodox Church
^Fodor's (12 tháng 2 năm 1986). Fodor's South Pacific. Fodor's. ISBN9780679013075. As King George I of Tonga, Tupou created the "modern" Christian state with the Cross dominating its flag, and with the rigorous constitutional clause regulating observation of the Sabbath.
^Oliver, Douglas L. (1 tháng 1 năm 1989). The Pacific Islands. University of Hawaii Press. tr. 118. ISBN9780824812331. Tonga, according to its mission friends, exemplified how grace and selfless devotion to the task could transform a feuding array of heathen communities into a unified Christian state.
^Temperman, Jeroen (2010). State-Religion Relationships and Human Rights Law. Brill Academic Publishers. tr. 18. ISBN9789004181489. The Constitution of Tuvalu in a similar vein constitutes Tuvalu as "an independent State based on Christian principles...and Tuvaluan custom and tradition"; and also the Constitution of Vanuatu proclaims in its Preamble: "[we] HEREBY proclaim the establishment of the united and free Republic of Vanuatu founded on traditional Melanesian values, faith in God, and Christian principles..."
^Temperman, Jeroen (2010). State-Religion Relationships and Human Rights Law. Brill Academic Publishers. tr. 18. ISBN9789004181489. The Catholic State of Vatican City is, of course, the best contemporary example of a Christian state. The State of Vatican City, originally established by the Lateran Pacts of 1929, approximates most faithfully the ideal-typical conception of theocratic Roman Catholic state. The Pope is ex officio simultaneously leader of the Catholic Church as well as Head of State and Head of the Government of the State of the Vatican City; he also possesses de jure absolute authority over the legislative, executive and judicial branches. Practically all acts and policies of the Vatican City revolve around the interests of the Holy See and, apart from the members of the Pontifical Swiss Guard, virtually all inhabitants of the Vatican City are members of the clergy.
^Cambridge University Historical Series, An Essay on Western Civilization in Its Economic Aspects, p.40: Hebraism, like Hellenism, has been an all-important factor in the development of Western Civilization; Judaism, as the precursor of Christianity, has indirectly had had much to do with shaping the ideals and morality of western nations since the christian era.
^Caltron J.H Hayas, Christianity and Western Civilization (1953),Stanford University Press, p.2: That certain distinctive features of our Western civilization — the civilization of western Europe and of America— have been shaped chiefly by Judaeo – Graeco – Christianity, Catholic and Protestant.
^Orlandis, A Short History of the Catholic Church (1993), preface.
^Dawson, Christopher; Glenn Olsen (1961). Crisis in Western Education . tr. 108. ISBN978-0-8132-1683-6.
^Rüegg, Walter: "Foreword. The University as a European Institution", in: A History of the University in Europe. Vol. 1: Universities in the Middle Ages, Cambridge University Press, 1992, ISBN 0-521-36105-2, pp. XIX–XX
^Hannam, James (2009). God's Philosophers: How the Medieval World Laid the Foundations of Modern Science. Icon Books.
^Wallace, William A. (1984). Prelude, Galileo and his Sources. The Heritage of the Collegio Romano in Galileo's Science. N.J.: Princeton University Press.
^Sir Banister Fletcher, History of Architecture on the Comparative Method.
^Buringh, Eltjo; van Zanden, Jan Luiten: "Charting the "Rise of the West": Manuscripts and Printed Books in Europe, A Long-Term Perspective from the Sixth through Eighteenth Centuries", The Journal of Economic History, Vol. 69, No. 2 (2009), pp. 409–445 (416, table 1)
^Ferguson, Kitty Pythagoras: His Lives and the Legacy of a Rational Universe Walker Publishing Company, New York, 2008, (page number not available – occurs toward end of Chapter 13, "The Wrap-up of Antiquity"). "It was in the Near and Middle East and North Africa that the old traditions of teaching and learning continued, and where Christian scholars were carefully preserving ancient texts and knowledge of the ancient Greek language."
^Baruch A. Shalev, 100 Years of Nobel Prizes (2003), Atlantic Publishers & Distributors, p.57: between 1901 and 2000 reveals that 654 Laureates belong to 28 different religions. Most (65.4%) have identified Christianity in its various forms as their religious preference. ISBN 978-0935047370
McManners, John (2002). The Oxford history of Christianity. Oxford [Oxfordshire]: Oxford University Press. ISBN0192803360.
Padgett, Alan G.; Sally Bruyneel (2003). Introducing Christianity. Maryknoll, N.Y: Orbis Books. ISBN1570753954. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2008.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Price, Matthew Arlen; Michael, Father Collins (2003). The Story of Christianity. New York: DK Publishing Inc. ISBN0789496100.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Alicia KeysAlicia Keys nel 2019 Nazionalità Stati Uniti GenereContemporary R&B[1]Soul[2]Neo soul[3] Periodo di attività musicale1998 – in attività Strumentovoce, pianoforte, tastiera, violoncello, Rhodes, sintetizzatore, clavinet, mellotron, Wurlitzer, chitarra, basso EtichettaRCA (2001-2021), Alicia Keys Records (2022-presente) Album pubblicati12 Studio9 Live2 Logo ufficiale Sito ufficiale Modifica dati su Wikidata · Manuale...
Artikel ini bukan mengenai Bronze Star, Bronze Award, bronze metal, atau Bronze Medallion. Medali perunggu dari Olimpiade Musim Panas 1980 Medal of the Emperor John VIII Palaiologos oleh Pisanello (1438), dibuat dalam berbagai logam, tetapi biasanya dalam perunggu Medali Perunggu dalam olahraga dan daerah lain yang serupa yang melibatkan kompetisi adalah medali yang terbuat dari perunggu diberikan kepada finalis yang ada di tempat ketiga dari suatu kontes atau kompetisi seperti Olimpiade, Com...
Festival Janadriyahمهرجان الجنادريةFestival Janadriyah ke-27 tahun 2012FrekuensiTahunanLokasiRiyadh, Arab SaudiTahun aktif33 tahunAcara pertama24 Maret 1985Terakhir diadakan2017Acara sebelumnya2017Acara berikutnya2018PenyelenggaraKementerian Garda Nasional Arab SaudiSitus webhttp://www.janadria.org.sa/ Festival Janadriyah (Arab: مهرجان الجنادرية Maharajān al-Janādrīyahcode: ar is deprecated ) merupakan festival seni dan budaya tahunan yang diselenggarakan di R...
Alexander HerrmannHerrmann AgungLahir(1844-02-10)10 Februari 1844Paris, PrancisMeninggal17 Desember 1896(1896-12-17) (umur 52)Ellicottville, New York, ASPekerjaanpesulap, ilusionis Alexander Herrmann (10 Februari 1844 – 17 Desember 1896)[1] adalah seorang pesulap asal Prancis, yang lebih dikenal sebagai Herrmann Agung. Ia menikahi Adelaide Herrmann, pesulap lain yang dikenal sebagai Ratu Sulap. Referensi ^ Magician Herrmann Dead (PDF). The New York Times. Decembe...
Launch site in China 38°50′57″N 111°36′29″E / 38.8491°N 111.608°E / 38.8491; 111.608 Taiyuan Satellite Launch CenterLong March 6 on Launch Pad 16LocationKelan, Xinzhou, ShanxiCoordinates38°50′56.71″N 111°36′30.59″E / 38.8490861°N 111.6084972°E / 38.8490861; 111.6084972Short nameTSLCOperatorCASCTotal launches121[a]Launch pad(s)Four (Three active and One Retired)Launch historyStatusActiveLC-7 launch historyStatusRet...
Gland that produces sex cells For the cartoon character, see Buster Gonad. This article may require cleanup to meet Wikipedia's quality standards. The specific problem is: Writing does not cover the subject in a clear and concise manner. Please help improve this article if you can. (May 2012) (Learn how and when to remove this template message) GonadA pair of ovaries of Cyprinus carpio (common carp) placed in dissecting dishIdentifiersMeSHD006066FMA18250Anatomical terminology[edit on Wiki...
This is a list of people from Oakland, California, people born in Oakland or who lived in Oakland for a significant time. This is a dynamic list and may never be able to satisfy particular standards for completeness. You can help by adding missing items with reliable sources. Academics Gail Mahood – geology (born in Oakland)[1] Artists and designers Natalia Anciso – artist and educator Olive Ayhens – painter[2] Steven F. Arnold – filmmaker, photographer, p...
Indian filmmaker This biography of a living person needs additional citations for verification. Please help by adding reliable sources. Contentious material about living persons that is unsourced or poorly sourced must be removed immediately from the article and its talk page, especially if potentially libelous.Find sources: Vysakh – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (November 2013) (Learn how and when to remove this message) VysakhVysakh in ...
Empire du Viêt NamĐế quốc Việt Nam 1945–1945 Informations générales Statut Monarchie, État satellite de l'empire du Japon Capitale Hué Langue(s) vietnamien Histoire et événements 9 mars 1945 Coup de force des Japonais contre les Français 11 mars 1945 Proclamation de l'indépendance 14 août 1945 Rattachement de la Cochinchine 25 août 1945 Abdication de Bảo Đại Empereur Bảo Đại Premier ministre Trần Trọng Kim Entités précédentes : Protectorat d'Annam Pr...
Helicopter system designed to be worn on a person's back The Pentecost HX-1 Hoppi-Copter, a functional backpack helicopter A backpack helicopter is a helicopter motor and rotor and controls assembly that can be strapped to a person's back, so they can walk about on the ground wearing it, and can use it to fly. It uses a harness like a parachute harness and should have a strap between the legs (so the pilot does not fall out of the harness during flight). Some designs may use a ducted fan desi...
Voce principale: Football Club Crotone. FC CrotoneStagione 2016-2017Un'immagine di Milan-Crotone del 4 dicembre 2016 Sport calcio Squadra Crotone Allenatore Davide Nicola[1] All. in seconda Manuele Cacicia[2] Presidente Raffaele Vrenna Serie A17º Coppa ItaliaTerzo turno Maggiori presenzeCampionato: Ferrari (37)Totale: Cordaz, Ferrari (37) Miglior marcatoreCampionato: Falcinelli (13)Totale: Falcinelli (13) StadioEzio Scida (16 640)Adriatico-Giovanni Cornacchia (20...
This article is about the slave trade of medieval Ireland. For the system of unfree labour in return for passage across the Atlantic, see Irish indentured servants. For the transportation of convicts to other British colonies, see penal transportation. For the conflation of Irish slavery and African chattel slavery, see Irish slaves myth. Viking Age slave chain (found in Germany) Slavery had already existed in Ireland for centuries by the time the Vikings began to establish their coastal set...
Russian mathematician This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Boris Galerkin – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (July 2020) (Learn how and when to remove this message) This article needs editing to comply with Wikipedia's Manual of Style. Please help improve the content. (February 2024) (L...
Lower house of parliament in Democratic Republic of the Congo National Assembly Assemblée nationale4th Legislature of the Third Republic of the Democratic Republic of the CongoTypeTypeLower House of the Parliament of the Democratic Republic of the Congo HistoryFounded1960StructureSeats500Political groups UDSP[a] (69) AA-UCN[b] (35) ADFC[c] (35) Agissons and Buildings (26) AA-ADC[d] (21) AAAP[e] (21) Alli...
System of courts that interprets and applies the law For the American band, see Judiciary (band). The Supreme Court Building houses the Supreme Court of the United States, the highest court in the federal judiciary of the United States. The judiciary (also known as the judicial system, judicature, judicial branch, judiciative branch, and court or judiciary system) is the system of courts that adjudicates legal disputes/disagreements and interprets, defends, and applies the law in legal cases....
Property of a color This article is about the color property. For the city in Vietnam, see Huế. For other uses, see Hue (disambiguation). All colors on this color wheel should appear to have the same lightness and the same saturation, differing only by hue. Look up hue in Wiktionary, the free dictionary. In color theory, hue is one of the main properties (called color appearance parameters) of a color, defined technically in the CIECAM02 model as the degree to which a stimulus can be descri...
This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Ascension scrub and grasslands – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (September 2010) (Learn how and when to remove this message) Ascension scrub and grasslandsSoutheast Bay on Ascension Islandlocation of Ascension IslandEcologyRealmAfrotropicalBiometro...
Use of living systems and organisms to develop or make useful products For other uses, see Biotechnology (disambiguation). Faculty of Food Engineering and Biotechnology Biotechnology is a multidisciplinary field that involves the integration of natural sciences and engineering sciences in order to achieve the application of organisms and parts thereof for products and services.[1] The term biotechnology was first used by Károly Ereky in 1919[2] to refer to the production of p...