Jemaah Islamiah có gốc rễ từ Darul Islam (DI, có nghĩa là "Triều đại Hồi giáo"), một phong trào Hồi giáo/chống thực dân cấp tiến tại Indonesia trong thập niên 1940.[6] JI chính thức được các lãnh đạo Abu Bakar Bashir và Abdullah Sungkar thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm, 1993[7] trong lúc ẩn cư tại Malaysia để trốn tránh ngược đãi[8] của chính quyền Suharto. Sau khi chế độ của Suharto sụp đổ vào năm 1998, cả hai cùng trở về Indonesia[9] và tại đây Jemaah Islamiah tiến sang ranh giới khủng bố khi một trong những người sáng lập ra nó là Abdullah Sungkar thiết lập liên hệ với mạng lưới al-Qaeda của Osama Bin Laden.[10]
Các hoạt động bạo lực của Jemaah Islamiah bắt đầu trong những vụ xung đột cộng đồng ở Maluku và Poso.[11] Tổ chức này chuyển hướng chú ý đến các mục tiêu quyền lợi của Hoa Kỳ và phương Tây tại Indonesia và vùng Đông Nam Á[12] kể từ khi bắt đầu Chiến tranh chống khủng bố do Hoa Kỳ lãnh đạo. Các kế hoạch khủng bố của Jemaah Islamiah tại Đông Nam Á đã bị vạch trần khi âm mưu đặt một số quả bom tại Singapore của tổ chức này bị giới chức địa phương phát hiện.
Trước vụ đánh bom Bali đầu tiên, người ta đã đánh giá thấp về mối đe dọa từ Jemaah Islamiah[15] Jemaah Islamiah được chú ý sau khi sát hại hàng trăm thường dân trong vụ đánh bom xe Bali vào ngày 12 tháng 10 năm 2002. Trong cuộc tấn công, kẻ đánh bom liều chết đã giết chết 202 người và làm bị thương nhiều người trong hai vụ nổ. Sau vụ tấn công này, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã liệt Jemaah Islamiah vào danh sách các tổ chức khủng bố nước ngoài. Jemaah Islamiah cũng bị nghi ngờ đã thực hiện vụ đánh bom khách sạn JW Marriott ở Kuningan, Jakarta năm 2003, đánh bom đại sứ quán Úc năm 2004 tại Jakarta, đánh bom khủng bố Bali năm 2005 và đánh bom khách sạn JW Marriott và Ritz-Carlton năm 2009. Các cụ tấn công Bali và JW Marriott cho thấy rằng Jemaah Islamiah không loại trừ việc tấn công cùng một nhiều lần một mục tiêu. Jemaah Islamiah cũng trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến hàng chục vụ đánh bom ở miền Nam Philippines, thường là liên minh với ASG.
Tuy nhiên, hầu hết các nhân vật nổi bật của Jemaah Islamiah như Hambali, Abu Dujana, Azahari Husin, Noordin Top và Dulmatin đã bị bắt hoặc bị giết, hầu hết là do biệt đội chống khủng bố 88 của Indonesia tiến hành. Trong khi một số nhà lãnh đạo trước kia của tổ chức này, bao gồm nhà thánh chiến người Malaysia và cựu chiến binh Chiến tranh AfghanistanNasir Abbas, đã từ bỏ bạo lực và thậm chí còn hỗ trợ các chính phủ Indonesia và Malaysia trong cuộc chiến chống khủng bố.
Chú thích
^Các dạng chuyển tự hoặc tên gọi khác bao gồm Jemaah Islamiyah, Jemaa Islamiyah, Jema'a Islamiyya, Jema'a Islamiyyah, Jema'ah Islamiyah, Jema'ah Islamiyyah, Jemaa Islamiya, Jemaa Islamiyya, Jemaah Islamiyya, Jemaa Islamiyyah, Jemaah Islamiyyah, Jemaah Islamiyyah, Jemaah Islamiya, Jamaah Islamiyah, Jamaa Islamiya, Jemaah Islam, Jemahh Islamiyah, Jama'ah Islamiyah và Al-Jama'ah Al Islamiyyah.
^Blake Mobley (ngày 26 tháng 8 năm 2006). “Jemaah Islamiyah Dossier”. Center For Policing Terrorism. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2012.
Abuza, Zachary. Militant Islam in Southeast Asia: Crucible of Terror. Boulder, Colorado, USA: Lynne Rienner Publishers, 2003. ISBN 1-58826-237-5.
Atran, Scott (2010). Talking to the Enemy: Faith, Brotherhood, and the (Un)Making of Terrorists. New York: Ecco Press / HarperCollins. ISBN 978-0-06-134490-9.
Barton, Greg (2005). Jemaah Islamiyah: radical Islam in Indonesia. Singapore: Singapore University Press. ISBN 9971-69-323-2.
Lim, Merlyna. Islamic Radicalism and Anti-Americanism in Indonesia: The Role of the Internet. Washington: East-West Center, 2005. ISBN 978-1-932728-34-7.
Reeve, Simon. The New Jackals: Ramzi Yousef, Osama Bin Laden and the Future of Terrorism. Boston: Northeastern University Press, 1999. ISBN 1-55553-509-7.
Ressa, Maria. Seeds of Terror: An Eyewitness Account of Al-Qaeda's Newest Center of Operations in Southeast Asia. New York: Free Press, 2003. ISBN 0-7432-5133-4.