In This Skin

In This Skin
Bìa đĩa In This Skin của Jessica Simpson
Bìa đĩa phiên bản gốc dành cho thị trường Bắc Mỹ
Album phòng thu của Jessica Simpson
Phát hành19 tháng 8 năm 2003
Thu âm2002–03
Thể loại
Thời lượng41:57
Hãng đĩaColumbia
Sản xuất
Thứ tự album của Jessica Simpson
This Is the Remix
(2002)
In This Skin
(2003)
ReJoyce: The Christmas Album
(2004)
Bìa khác
Bìa đĩa cho phiên bản dành cho thị trường quốc tế
Bìa đĩa cho phiên bản dành cho thị trường quốc tế
Đĩa đơn từ In This Skin
  1. "Sweetest Sin"
    Phát hành: ngày 22 tháng 7 năm 2003
  2. "With You"
    Phát hành: ngày 13 tháng 10 năm 2003
  3. "Take My Breath Away"
    Phát hành: ngày 7 tháng 3 năm 2004
  4. "Angels"
    Phát hành: ngày 6 tháng 6 năm 2004

In This Skinalbum phòng thu thứ ba của nữ ca sĩ người Mỹ Jessica Simpson. Album được phát hành vào năm 2003 bởi hãng đĩa Columbia Records. Album được tái bản vào tháng 3 năm 2004 với ba bài hát mới. Album đã thành công vang dội ở Bắc Mỹ, đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ và được chứng nhận ba đĩa bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).[1] In This Skin đứng thứ 35 trong top những album bán chạy nhất trong năm 2004 và đã tiêu thụ được hơn năm triệu bản trên toàn thế giới.[2][3] Album được xếp hạng thứ 153 trong danh sách những album bán chạy nhất những năm 2000 của tạp chí Billboard.[4]

Hoàn cảnh ra đời

Sau khi phát hành album Irresistible năm 2001, Jessica cho biết cô ấy muốn viết nhạc cho album thứ ba của mình. Trong một lần phỏng vấn với kênh MTV vào tháng 10 năm 2002, Nick Lachey, lúc đó còn là chồng của Jessica, tiết lộ rằng cô đang trở lại phòng thu để thực hiện một album mới. Anh ấy nói "Cuối cùng thì cô ấy cũng viết được những ca khúc của riêng mình. Tôi đã luôn bảo rằng cô ấy nên làm vậy từ lâu rồi nhưng mà Jessica cứ ngại ngùng rồi chẳng dám làm. Nhưng thực tế thì cô ấy viết nhạc rất giỏi và giờ cổ đang cho ra đời những ca khúc từ tận sâu trong trái tim của cổ". Về hướng đi của album, Nick cho biết "Đó là một album đúng với con người của Jessica và bộc lộ những gì cô ấy muốn nói. Tất cả các ca khúc đều được thu với dàn nhạc sống, mang nhiều âm sắc hoàn toàn khác biệt với phong cách pop mà cổ đã từng theo trước đó. Tôi cho rằng cuối cùng thì Jessica cũng đã tìm được hướng đi của riêng mình và làm được những gì cô ấy muốn." [5] Vào tháng 3 năm 2003, Jessica tiết lộ rằng album thứ ba của cô sẽ có tên là In This Skin.[6]

Những ca khúc mới

Jessica đã thu âm thêm hai bài hát mới cho lần tái bản của album; một là bản cover bài hát "Take My Breath Away" (1986) của ban nhạc Berlin và bản còn lại là bản cover ca khúc ăn khách của Robbie Williams, "Angels". Jessica cho biết "Take My Breath Away" là ca khúc tượng trưng cho tình yêu của cô và Nick vì "ca khúc này được phát khi Nick lần đầu hôn tôi".[7] "Tôi luôn thích bài hát 'Take My Breath Away' từ lâu rồi", cô nói thêm. Nick Lachey đã giúp sản xuất vocal cho cả hai bài hát cover này. Khi ghi âm "Angels", Jessica gặp khá nhiều khó khăn vì cô ấy phải thu cả hai bài hát trong một ngày. Cô ấy cũng tiết lộ Nick đã giúp cô ấy có được tâm trạng thích hợp bằng cách để tay anh ấy trong túi quần sau của cô ấy "và ở ngay đó" trong suốt buổi ghi hình.[8][9]

Sản xuất

Kế hoạch ban đầu là album sẽ được sản xuất hầu hết bởi Missy Elliott, và Nick Lachey sẽ là người duy nhất góp mặt với Jessica trong album.[10] Tuy nhiên, cuối cùng thì ca khúc hát chung của cả hai không được chọn vào album.[11] Đĩa đơn đầu tiên của album, "Sweetest Sin" được viết bởi nhạc sĩ Diane Warren. Ca khúc nói về lần đầu quan hệ của Jessica (với Nick). Kênh MTV khen bài hát là một "ca khúc rất ngọt ngào".[12] Về ý tưởng cho đĩa đơn thứ hai, "With You", Jessica nói "Tui rất thích bài này vì nó nói lên tính cách của tôi [...] Nick rất thích khi thấy tôi thoải mái khi chỉ với một chiếc áo thun, và đó là ý tưởng của ca khúc này." [13] Bản cover "Take My Breath Away" là ca khúc chủ đề tượng trưng cho tình yêu của Jessica và Nick "bởi vì nó được chơi lần đầu tiên Nick hôn tôi".[7] "Tôi nào giờ luôn thích ca khúc này rồi", cô nói. Nick Lachey đã giúp sản xuất vocal cho cả hai bài hát cover của cô ấy. Khi ghi âm "Angels", Jessica gặp khá nhiều khó khăn vì cô ấy phải thu cả hai bài hát trong một ngày. Cô ấy cũng tiết lộ Nick đã giúp cô ấy bình tĩnh hơn bằng cách để tay anh ấy trong túi quần sau của cô ấy "và ở ngay đó" trong suốt buổi ghi hình [8]

Đánh giá

Đánh giá chuyên môn
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[1]
Entertainment WeeklyC−[14]
Rolling Stone[15]
Slant Magazine[16]
Stylus MagazineD+[17]

Những đánh giá ban đầu đối với album In This Skin chỉ ở mức trung bình. Sal Cinquemani của tạp chí Slant đánh giá album 2.5 sao và anh chỉ riêng đĩa đơn mở đường cho album, "Sweetest Sin", nhận xét ca khúc "rất bắt tai" nhưng "khá phô trương và hơi quá tay trong khâu sản xuất. Mà nếu cho công tâm thì phải nói toàn bộ ca khúc trong album đều hơi quá tay. Cả album tràn ngập những bản ballad ca ngợi tình yêu của Jessica dành cho Nick. Bài 'My Way Home' có đến tận 15 giây để Jessica khoe "độ khỏe của phổi" mà nghe thì thấy hơi dị dị, chưa kể còn lồng thêm vài ba giai điệu nhạc Trung Đông rung nhẹ sau nền nhạc chính không ăn nhập cho lắm. Tuy nhiên thì album cũng có một số điểm sáng gây bất ngờ, trong đó có ca khúc 'Forbidden Fruit' lấy ý tưởng từ giai điệu ca khúc 'Music' của Madonna. Bài 'Loving You", một bản ballad "gây thương nhớ" để nhắc nhở người nghe rằng, sau phong cách teen pop ở album trước đó, Jessica hoàn toàn có thể chinh phục khán giả lần nữa như cô đã từng làm với 'I Wanna Love You Forever'."[18]

Stephen Thomas Erlewine từ trang AllMusic đã cho album 2,5 sao cũng như một bài đánh giá trung bình. Anh viết: "Với album thứ 3 In This Skin, tuy vẫn còn đâu đó hơi hướng dance pop nhưng Jessica đã dần bỏ đi hình ảnh và giai điệu thuần dance pop của album trước đó để hướng vào dòng nhạc trưởng thành hơn, cảm xúc hơn, mang phong thái của một diva mà cô ấy luôn muốn đạt được. Tuy nhiên, vấn đề của album là ở chỗ màu sắc thì hướng về sự trưởng thành, mà âm sắc thì lại quá trẻ con, khiến người nghe khó bị thuyết phục." [1] Jon Caramanica của tờ Rolling Stone đã cho album 2 sao và cho rằng "album là một minh chứng của việc giọng ca của Jessica không được áp dụng đúng chỗ. Jessica được trời phú cho quãng giọng theo dòng nhạc phúc âm (gospel), mà album thì lại chứa những ca khúc không làm bật được giọng của cô, đơn cử như ca khúc mang phong cách dance-pop 'Forbidden Fruit' và bản ballad gượng gạo 'You Don't Have to Let Go', khiến cho Jessica không hoàn toàn khoe được chất giọng thiên bẩm của mình."

Doanh số thương mại

Trong thời gian phát hánh album In This Skin, Jessica đã trở thành một tên tuổi của mọi nhà nhờ vào show truyền hình thực tế của chính cô và chồng Newlyweds: Nick and Jessica. Ban đầu album không bán chạy cho lắm và chỉ mở màn ở vị trí thư 10 với chỉ 64,000 bản trong tuần đầu tiên, và album nhanh chóng rớt hạng trên bảng xếp hạng Billboard 200. Trong vòng 5 tháng, album chỉ bán được khoảng 565,000 bản[19]. Tuy nhiên, doanh số bắt đầu tăng đều trong mùa lễ Noel của năm 2003. Ở thời điểm đó, Jessica nhận được sự quan tâm của giới truyền thông bởi sự ngô nghê và hài hước của mình trong show truyền hình Newlyweds, và cũng nhờ sự ủng hộ của các đài phát thanh đối với đĩa đơn thứ hai của cô, "With You". Nhờ vậy mà album dần tăng hạng và lọt được trở lại vào top 20 trên bảng xếp hạng Billboard 200. Thấy được chiều hướng tốt, hãng đĩa Columbia quyết định tái bản album In This Skin với thêm một vài ca khúc mới. Sau thành công của đĩa đơn "With You", lúc này đã vào top những ca khúc được yêu thích trên các đài phát thanh vào tháng 2 năm 2004, Jessica phát hành đĩa đơn thứ ba "Take My Breath Away", cũng là đĩa đơn đầu tiên trong album tái bản. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2004, phiên bản tái bản đưa album In This Skin nhảy vọt từ vị trí thứ 16 lên vị trí á quân của bảng xếp hạng, bán được 159,500 đĩa trong tuần đó, doanh số tăng lên đến 205%. Đây là chính thời điểm mà Jessica đạt được doanh số trong tuần cao nhất trong sự nghiệp, đánh bại doanh số trước đó của album phòng thu thứ hai của chính Jessica, Irresistible, mở màn ở vị trí thứ 6 với doanh số 120,000 đĩa trong tuần đầu tiên. Album trụ vững trong top 10 album trong 8 tuần không liên tiếp và trụ trong top 100 album được 61 tuần. Album đứng trong bảng xếp hạng Billboard 200 được tổng cộng 75 tuần. Vào tháng 12 năm 2004, album In Thí Skin được chứng nhận 3 lần đĩa bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) nhớ bán được hơn 3 triệu bản tại Mỹ. Billboard xếp album đứng vị trí thứ 14 trong bảng xếp hạng cuối năm dành cho các album xuất sắc của năm 2004.

Tại Úc, album mở màn ở vị trí thứ 40 của tuần lễ tính từ ngày 4 tháng 4. Đến tuần thứ 7 thì album đạt đến vị trí thứ 13, cũng là vị trí cao nhất mà một album của Jessica Simpson đạt được ở đất nước này. Album In This Skin trụ trong top 50 trong 27 tuần và sau đó được chứng nhận đĩa bạch kim bới Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc Châu (ARIA). Ở Ireland, album mở màn ở vị trí thứ 58. Sang tuần thứ 2, album rơi xuống hạng thứ 75 và đến tuần thứ 4 thì album lội ngược dòng lên hạng thứ 27. Album trụ trong top 75 của Ireland được 8 tuần. Tại Anh, album mở màn ở vị trí thứ 36, cùng vị trí với album đầu tay của Jessica, Sweet Kisses, và trụ trong top 75 được 5 tuần. Tại Canada, album vươn được tới vị trí thứ 21 và sau đó được chứng nhận đĩa vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Canada (CRIA). Ở Thụy Sĩ, tuy không có đĩa đơn nào để quảng bá cho album, nhưng album vẫn mở màn ở vị trí thứ 78 và trụ trong bảng xếp hạng được 3 tuần (Hai album trước của Jessica là Sweet Kisses đã từng vươn đến vị trí thứ 5, và Irresistible ở vị trí thứ 15). Ở Venezuela, album vươn tới vị trí thứ 4, đánh bại vị trí thứ 10 trước đó của album Irresistible. In This Skin đứng hạng thứ 35 trong top những album bán chạy nhất của năm 2004 với tổng doanh số khoảng 5 triệu bản được tiêu thụ toàn cầu.

Đĩa đơn

"Sweetest Sin" được chọn làm đĩa đơn mở đường cho album In This Skin. Được đạo diễn bởi Dean Paraskavopoulos, music video của ca khúc "Sweetest Sin" bắt đầu bằng những cảnh quay của Jessica nhảy múa và tương tác trực diện với ống kính trên tông màu đen trắng. Sau đó chuyển cảnh sang các cảnh Jessica nhảy múa trên một bãi biển và các cảnh tình tứ với Nick Lachey (lúc này vẫn là chồng của Jessica) dưới một thác nước tại bãi biển. Những cảnh tiếp theo được tiếp diễn xuyên suốt video, có cảnh Jessica nằm trên giường một mình và ngân nga hát. Video tiếp tục với các phân cảnh đan xen nhau của các cảnh trước đó cho đến những giây phút cuối của ca khúc, lúc này Jessica sẽ cùng với chồng nằm hạnh phúc cạnh nhau trên bãi biển rồi sau đó Nick Lachey biến mất, để lại Jessica một mình.

"With You" là đĩa đơn thứ hai cho album, phát hành vào ngày 16 tháng 9 năm 2003. Ca khúc nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. "With You" đón nhận nhiều thành công và vươn tới top 10 của các bảng xếp hạng ở Úc và Anh, và top 20 ở Ireland, Na Uy và Hoa Kỳ. "With You" cũng là ca khúc đạt thứ hạng quán quân đầu tiên của cô tại bảng xếp hạng Top 40 Mainstream (bảng xếp hạng 40 ca khúc thịnh hàng trên các đài phát thanh của Hoa Kỳ). Đĩa đơn sau đó được chứng nhận Đĩa Vàng ở Mỹ và Đĩa Bạch Kim tại Úc. Video của "With You" được phát hành dưới dạng đĩa DVD. Jessica nhận được một đề cử (và cũng là duy nhất trong sự nghiệp) tại lễ trao giải Giải thưởng âm nhạc Châu Âu của MTV cho hạng mục Nữ Ca Sĩ xuất sắc nhất. Đây là thành công thương mại của Jessica ở các lãnh thổ khác ngoài Hoa Kỳ. Tại lễ trao giải Giải thưởng Video âm nhạc của MTV, "With You" nhận hai đề cử cho hạng mục Nữ Ca Sĩ xuất sắc nhất và Video Nhạc Pop xuất sắc nhất.

Quảng bá

Để quảng bá cho album, Jessica Simpson biểu diễn live ca khúc "Sweetest Sin" tại Trump Taj Mahal ở Atlantic City, New Jersey. Màn trình diễn được Jessica xem là lời yêu thương của cô gửi đến chồng cô, Nick Lachey. Lần trình diễn này được thâu lại và sau đó phát trên chương trình truyền hình thực tế của cô Newlyweds: Nick and Jessica mùa thứ 2. "With You" được biểu diễn trong chương trình buổi tối The Tonight Show with Jay Leno vào ngày 17 tháng 10 năm 2003; và trên chương trình buổi sáng Live with Regis and Kelly vào ngày 23 tháng 10 năm 2003. Jessica cũng đã mang đến một buổi trình diễn đáng nhớ tại lễ trao giải Giải thưởng Video âm nhạc của MTV năm 2004 với liên khúc "With You"/"Angels". Chiến dịch quảng bá cho đĩa đơn "Angels" được đầu tư nhiều hơn. Jessica hát bản song ngữ Anh-Tây Ban Nha của ca khúc với ca sĩ người Tây Ban Nha David Bisbal tại lễ trao giải Latin Grammy năm 2004; trình diễn ca khúc trên chương trình VH1 Divas 2004 và ở các chương trình khác như Late Show with David Letterman và The Early Show. Sau đó, Jessica trình bày ca khúc "Angels" ở chương trình thực tế Dancing with the Stars mùa thứ 7.

The Reality Tour

The Reality Tour là chuyến lưu diễn lớn của riêng Jessica Simpson để quảng bá cho album In This Skin. Đây cũng là lần lưu diễn lớn thứ 2 trong sự nghiệp của Jessica. Trong thời gian quảng bá cho phiên bản tái bản của album, Jessica đã nhận một vài phỏng vấn và cho biết cô đang dự tính sẽ có một tour diễn và đây sẽ là một cách để "tạm nghỉ ngơi quay hình cho các chương trình TV và để giao lưu, gần gũi với người hâm mộ hơn". Tour diễn cuối cùng được xác nhận vào tháng 5 năm 2004 và được thông báo trên nhiều phương tiện truyền thông, và sẽ được tài trở bên Ice Breakers và Proactiv Solutions. Nhờ vào sức hút của album, Jessica Simpson đi tour tại các nhà thi đấu và các sân khấu lớn ngoài trời thay vì đi tour tại các trung tâm mua sắm và lễ hội nhỏ nhỏ như trước đây. Trong thời gian lưu diễn, Jessica cho biết cô rất hạnh phúc vì có thể rời xa được ống kính truyền hình thực tế lúc nào cũng theo sát cô mỗi phút mỗi giây. Với thành công của chương trình truyền hình Newlyweds: Nick and Jessica, Jessica đã lên ý tưởng thiết kế cho chuyến lưu diễn sao cho khán giả như đang xem cô trong Newlyweds.

Trong một lần phỏng vấn với Associated Press, Jessica cho biết cô muốn các buổi trình diễn trong tour sẽ phải tập trung vào âm nhạc và cá tính của cô. Trên sân khấu, Jessica trình diễn cùng với một ban nhạc gồm 7 nhạc công, không có vũ công hay trình diễn vũ đạo nào cả. Jessica sẽ hát các khúc trong album mới và cả hai album trước đó, kết hợp cùng với những phân đoạn tâm sự của cô với khán giả về cuộc đời của mình và về các ca khúc của cô. Những phân đoạn đằng sau hậu trường từ chương trình Newlyweds và một vài chương trình khác có Jessica góp mặt cũng được thêm vào trong danh mục của tour diễn. Tại mỗi đêm diễn, Jessica sẽ dành tặng ca khúc "I Have Loved You" cho lực lượng quân đội Hoa Kỳ và sẽ có một khoảng thời gian hỏi-đáp với các khán giả thắng giải trong các phần thi nhỏ.

Trước khi bắt đầu chuyến lưu diễn, Jessica Simpson đã trình diễn tại các buổi hội chợ được tài trợ của các kênh phát thanh lớn như Your Show, Wango Tango, Summer Music Mania, Zootopia, Kiss Concert và Play Safe in the Park.

Tour diễn bắt đầu tại tiểu bang New Orleans vào tháng 6 và đi xuyên bang Hoa Kỳ trong 2 tháng kế tiếp, dừng tại hơn 30 thành phố và kết thúc vào ngày 1 tháng 8 tại Paso Robles. Bất chấp những dự đoán và báo cáo ban đầu rằng số lượng vé bán ra khá thấp[20], The Reality Tour của Jessica đã trở thành một trong những tour diễn mùa hè thành công nhất tại Bắc Mỹ và Jessica phải thêm một số chặng diễn nhỏ ở Mỹ. Mười một buổi biểu diễn đã được lên kế hoạch cho tháng 9 và tháng 10 cùng năm. Cho đến thời điểm hiện nay, The Reality Tour vẫn đang là chuyến lưu diễn lớn cuối cùng trong sự nghiệp của Jessica. The Reality Tour được xếp hạng 87 trong "Top 100 Tours của năm 2004" của tạp chí Pollstar với doanh thu hơn 7 triệu đô la.

Danh sách bài hát

In This Skin — Phiên bản chuẩn
STTNhan đềSáng tácProducer(s)Thời lượng
1."Sweetest Sin"Diane Warren
3:14
2."With You"
  • Marvel
  • Mann
3:12
3."My Way Home"
Elliott3:13
4."I Have Loved You"
  • Lamar
  • Barnhill
  • David Munk[b]
  • Lee Mars[b]
4:45
5."Forbidden Fruit"
  • Simpson
  • Greg Fitzgerald
  • Thomas Nichols
Fitzgerald3:30
6."Everyday See You"
  • Williams
  • Golde
  • Livingston
4:18
7."Underneath"
Keith Thomas4:02
8."You Don't Have to Let Go"
Harmon3:43
9."Loving You"
  • Simpson
  • Elliott
  • Craig Young
Elliott3:31
10."In This Skin"
Fusari4:18
11."Be"
  • Simpson
  • Williams
  • Golde
  • Livingston
  • Williams
  • Golde
  • Livingston
4:11
Tổng thời lượng:41:57

Xếp hạng

Xếp hạng cuối thập kỷ

Chart (2000–09) Position
US Billboard 200[4] 153

Chứng nhận

Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[33] Platinum 70.000^
Canada (Music Canada)[34] Gold 50.000^
New Zealand (RIANZ)[26] Gold 7,500 
Hoa Kỳ (RIAA)[35] 3× Platinum 3.000.000^
Tổng hợp
Worldwide 5,000,000[3]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Thời gian phát hành album

Nước/Lãnh thổ Ngày tháng Phiên bản Hãng đĩa Định dạng Catalog Tham khảo
Canada 19 tháng 8 năm 2003 Chuẩn Sony Music CD CK 86560 [36]
Hoa Kỳ Columbia 86560 [37]
Nhật 27 tháng 8 năm 2003 Sony Music SICP 425 [38]
Canada 2 tháng 3 năm 2004 Collector's
CK 91876 [39]
Châu Âu
  • COL 5124399 (CD)
  • 5124393000 (CD+DVD)
[40][41]
Hoa Kỳ Columbia CK 92041 [42]
Vương Quốc Anh 19 tháng 4 năm 2004 Chuẩn Sony Music CD 512499000 [43]
Úc 4 tháng 9 năm 2004 5124399000 [44]

Tham khảo

  1. ^ a b c Stephen Thomas Erlewine (2003). “In This Skin - AllMusic Review”. AllMusic. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2010.
  2. ^ “IFPI Top 50 Albums of 2004 based on worldwide units sold” (PDF). IFPI. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2013.
  3. ^ a b “Jessica Simpson In This Skin Review”. sputnikmusic.com. 2006. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “sputnikmusic.com” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  4. ^ a b “Decade End Charts – Billboard 200 Albums”. Billboard. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2018.
  5. ^ Wiederhorn, Jon (29 tháng 10 năm 2002). “Jessica Simpson, Nick Lachey Walk Down The Aisle - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  6. ^ Moss, Corey (27 tháng 3 năm 2003). “Nick Lachey, Jessica Simpson Expect To Deliver This Summer - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  7. ^ a b Vineyard, Jennifer (12 tháng 2 năm 2004). “Jessica Simpson Plans Breathtaking In This Skin Re-Release - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  8. ^ a b Vineyard, Jennifer (15 tháng 3 năm 2004). “Jessica Simpson Goes From 'Top Gun' To Loved One With 'Breath' - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  9. ^ “Jessica Simpson - In This Skin (Collector's Edition) (album review)”. Sputnikmusic. 5 tháng 7 năm 2006. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
  10. ^ “Jessica Simpson To Duet With Nick Lachey Again”. popdirt.com. ngày 11 tháng 3 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2013.
  11. ^ “MTVNews.com: Jessica Simpson:”. Mtv.com. 9 tháng 3 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  12. ^ Goodman, Abbey (18 tháng 8 năm 2003). “News - Articles - 1476975”. Mtv.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  13. ^ 10/20/03 (17 tháng 12 năm 2003). “Jessica And Nick Plan Duets Album, Say No To Sonny And Cher - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  14. ^ “Entertainment Weekly review”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2007.
  15. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên RS
  16. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên slant
  17. ^ “Stylus Magazine review”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2007.
  18. ^ Sal Cinquemani (ngày 20 tháng 8 năm 2003). “Jessica Simpson: In This Skin - Music Review”. Slant Magazine. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
  19. ^ “Girls 2 Women, Boys 2 Men: How Teen Pop Grew Up”. MTV.com. 9 tháng 3 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  20. ^ Trakin, Roy (3 tháng 6 năm 2004). “MADONNA, PRINCE SIZZLE, BUT MOST SUMMER TOURS FIZZLE”. Hits Daily Double. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2011.
  21. ^ “Australian Chart Position”. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2007.
  22. ^ "Jessica Simpson Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  23. ^ “France Chart Position”. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2007.
  24. ^ Steffen Hung. “Discography Jessica Simpson”. irishcharts.com. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  25. ^ “イン・ディス・スキン ジェシカ・シンプソンのプロフィールならオリコン芸能人事典-ORICON STYLE”. Oricon.co.jp. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  26. ^ a b “The Official New Zealand Music Chart”. Rianz.org.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2012.
  27. ^ 25 tháng 4 năm 2004/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2015.
  28. ^ “Swiss Chart Position”. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2007.
  29. ^ “UK Chart Position”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2006.
  30. ^ “U.S. Chart Position”. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2007.
  31. ^ “ARIA Charts: Year End: Top 100 Albums 2004”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2010.
  32. ^ “Jessica Simpson - Billboard 200 Albums Year End”. Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2014.
  33. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2004 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2014.
  34. ^ “Gold and Plantinum - Jessica Simpson”. Music Canada. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2014. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  35. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Jessica Simpson – In This Skin” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2014.
  36. ^ “Jessica Simpson – In This Skin (CD, Album, Enh) at Discogs”. Discogs.com. ngày 19 tháng 8 năm 2003. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  37. ^ "U.S. release details". AllMusic. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2007.
  38. ^ “Jessica Simpson – In This Skin (CD, Album) at Discogs”. Discogs.com. ngày 27 tháng 8 năm 2003. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  39. ^ “In this skin (reissue+2tracks): Jessica Simpson - Pop | Archambault”. Archambault.ca. ngày 9 tháng 3 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
  40. ^ “Jessica Simpson – In This Skin (CD, Album) at Discogs”. Discogs.com. ngày 2 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  41. ^ “Jessica Simpson – In This Skin (CD, Album, RE + DVD-V, PAL) at Discogs”. Discogs.com. ngày 2 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  42. ^ “Jessica Simpson – In This Skin (CD, Album, RE + DVD-V, NTSC) at Discogs”. Discogs.com. ngày 2 tháng 3 năm 2004. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2016.
  43. ^ "British release details". Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2008.
  44. ^ "Australian release details" Lưu trữ 2007-09-09 tại Wayback Machine. Sony BMG. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2007.

Read other articles:

Informal fallacy involving falsely limited alternatives Young America's dilemma: Shall I be wise and great, or rich and powerful? (poster from 1901) A false dilemma, also referred to as false dichotomy or false binary, is an informal fallacy based on a premise that erroneously limits what options are available. The source of the fallacy lies not in an invalid form of inference but in a false premise. This premise has the form of a disjunctive claim: it asserts that one among a number of alter...

 

 

Nawaksara adalah sebuah judul pidato yang dilakukan Presiden Soekarno pada tanggal 22 Juni 1966 dalam Sidang Umum ke-IV MPRS. Pidato ini disampaikan oleh Presiden Soekarno sebagai pertanggungjawabannya atas sikapnya dalam menghadapi Gerakan 30 September.[butuh rujukan] Soekarno sendiri menolak menyebut gerakan itu dengan nama tersebut. Menurutnya Gerakan itu terjadi pada tanggal 1 Oktober dini hari, dan karena itu ia menyebutnya sebagai Gestok (Gerakan 1 Oktober). Pidato pertanggungja...

 

 

American politician (1895–1982) Charles Norris PoulsonPoulson in 195936th Mayor of Los AngelesIn officeJuly 1, 1953 – July 1, 1961Preceded byFletcher BowronSucceeded bySam Yorty15th President of the United States Conference of MayorsIn office1958–1959Preceded byRobert F. Wagner Jr.Succeeded byRichard J. DaleyMember of theU.S. House of Representativesfrom CaliforniaIn officeJanuary 3, 1947 – June 11, 1953Preceded byNed R. HealySucceeded byGlenard P. LipscombConstituen...

This article includes a list of general references, but it lacks sufficient corresponding inline citations. Please help to improve this article by introducing more precise citations. (December 2012) (Learn how and when to remove this template message) Hand grenade Eihandgranate Model 39 Eihandgranate Model 39 with remnants of desert paintTypeHand grenadePlace of originNazi GermanyService historyIn service1939-1945Used byNazi Germany, Soviet Union[1]WarsWorld War II...

 

 

Disambiguazione – Se stai cercando altri significati, vedi Wittenberg (disambigua). WittenbergcittàLutherstadt Wittenberg Wittenberg – Veduta LocalizzazioneStato Germania Land Sassonia-Anhalt DistrettoNon presente CircondarioWittenberg AmministrazioneSindacoEckhard Naumann (SPD) TerritorioCoordinate51°52′01.56″N 12°38′54.24″E / 51.8671°N 12.6484°E51.8671; 12.6484 (Wittenberg)Coordinate: 51°52′01.56″N 12°38′54.24″E / 51.86...

 

 

This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: The Feeling album – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (March 2019) (Learn how and when to remove this message) 2016 studio album by The FeelingThe FeelingStudio album by The FeelingReleased4 March 2016GenreRockpower popsoft rockLength49:2...

Game or activity similar to the standard game of basketball H-O-R-S-E redirects here. For other uses, see horse (disambiguation). This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) This article has informations relevant to a Streetball and may contain an excessive amount of intricate detail that may interest only a particular audience. Please help by spinning off or relocating any relevant i...

 

 

Sada ThompsonBiographieNaissance 27 septembre 1927Des MoinesDécès 4 mai 2011 (à 83 ans)DanburyNationalité américaineFormation Université Carnegie-MellonScotch Plains-Fanwood High School (en)Activités ActricePériode d'activité à partir de 1955Conjoint Donald StewartAutres informationsDistinctions Tony Award de la meilleure actrice dans une pièce (1972)Primetime Emmy Award de la meilleure actrice dans une série télévisée dramatique (1978)modifier - modifier le code - modifie...

 

 

Hakim Konstitusi adalah jabatan yang menjalankan wewenang Mahkamah Konstitusi sebagai salah satu pelaku kekuasaan kehakiman. Jabatan Hakim Konstitusi berjumlah sembilan orang dan merupakan Pejabat Negara yang ditetapkan oleh Presiden. Hakim Konstitusi diajukan masing-masing tiga orang oleh Mahkamah Agung, tiga orang oleh Dewan Perwakilan Rakyat, dan tiga orang oleh Presiden. Masa jabatan Hakim Konstitusi adalah lima tahun, dan dapat dipilih kembali untuk satu kali masa jabatan berikutnya. Hak...

Topan Morakot (Kiko)Taifun (skala JMA)Taifun kategori 1 (SSHWS)Terbentuk pada2 Agustus 2009Mereda pada13 Agustus 2009(Keluar wilayah tropis pada 11 Agustus 2009) Kecepatan anginmaksimal10 menit: 140 km/jam 1 menit: 150 km/jam Tekanan minimal945 hPa (mbar) Korban jiwa789Kerusakan6.2 miliar (USD 2009)Area terdampakFilipina, Jepang, Taiwan, Tiongkok, Korea Selatan, Korea UtaraBagian dari Musim topan Pasifik 2009 Topan Morakot merupakan badai paling mematikan yang melanda Taiwan dalam sejara...

 

 

Bantayo Poboide sebagai salah satu Rumah Adat Gorontalo Benteng Otanaha, Kota Gorontalo Pariwisata di Gorontalo merupakan salah satu sektor ekonomi yang penting dan menjadi sumber alternatif pendapatan asli daerah.[1] Pariwisata sebagai salah satu tumpuan ekonomi di Gorontalo juga telah ditetapkan oleh pemerintah daerah Provinsi Gorontalo sebagai salah satu program pembangunan prioritas, selain sektor pendidikan dan kesehatan.[2] Provinsi Gorontalo memiliki objek wisata yang m...

 

 

British politician For the American botanist, see John Hunter Thomas. James Henry Thomas redirects here. For the Australian politician, see James Thomas (Australian politician). The Right HonourableJ. H. ThomasSecretary of State for the ColoniesIn office22 November 1935 – 22 May 1936MonarchsGeorge V Edward VIIIPrime MinisterStanley BaldwinPreceded byMalcolm MacDonaldSucceeded byWilliam Ormsby-GoreIn office25 August 1931 – 5 November 1931MonarchGeorge VPrime MinisterRamsa...

This article is part of a series on theSupreme Courtof the United States The Court History Procedures Nomination and confirmation Judiciary Committee review Demographics Ideological leanings of justices Lists of decisions Supreme Court building Current membership Chief Justice John Roberts Associate justices Clarence Thomas Samuel Alito Sonia Sotomayor Elena Kagan Neil Gorsuch Brett Kavanaugh Amy Coney Barrett Ketanji Brown Jackson Retired justices Anthony Kennedy David Souter Stephen Breyer...

 

 

乔冠华 中华人民共和国外交部部长 中国人民对外友好协会顾问 任期1974年11月—1976年12月总理周恩来 → 华国锋前任姬鹏飞继任黄华 个人资料性别男出生(1913-03-28)1913年3月28日 中華民國江蘇省盐城县逝世1983年9月22日(1983歲—09—22)(70歲) 中华人民共和国北京市籍贯江蘇鹽城国籍 中华人民共和国政党 中国共产党配偶明仁(1940年病逝) 龚澎(1970年病逝) 章含�...

 

 

Ongoing COVID-19 viral pandemic in Wallis and Futuna COVID-19 pandemic in Wallis and FutunaMap of the COVID-19 pandemic in Wallis and Futuna (as of 30 April 2021[update])   150+ confirmed cases   100–150 confirmed cases   50–100 confirmed cases   1–50 confirmed casesDiseaseCOVID-19Virus strainSARS-CoV-2LocationWallis and FutunaArrival date16 October 2020(3 years, 7 months, 3 weeks and 6 days ago)Confirmed case...

كارل غوستاف يونغ التزامنية (بالإنجليزية: synchronicity)‏ يُعرَّف التزامن لمنشئه كارل غوستاف يونغ بأنه «صدفة ذات مغزى»[1] أو أنها «صدف متعددة تحمل في طياتها عدد كبير من المعاني ذات مغزى».[2] وكمثال لذلك، أن تحلق خنيفساء بداخلِ غرفةِ شخصٍ ما في مستشفى، وفي ذات اللحظة، يصف ال�...

 

 

هذه المقالة يتيمة إذ تصل إليها مقالات أخرى قليلة جدًا. فضلًا، ساعد بإضافة وصلة إليها في مقالات متعلقة بها. (أكتوبر 2018) علامة المطابقة الأوراسيةعلامة المطابقة الأوراسية ( EAC، باللغة الروسية: Евразийское сооветствие) هي علامة تصديق تشير إلى المنتجات التي تتوافق مع جميع اللوا�...

 

 

خافيير فرنانديز كابريرا Javier Fernández Cabrera خافيير كابريرا في عام 2023، معلومات شخصية الاسم الكامل خافيير فرنانديز كابريرا مارتن بيناتو الميلاد 4 أكتوبر 1984 (العمر 39 سنة)مدريد، إسبانيا الطول 1.84 م (6 قدم 1⁄2 بوصة) الجنسية إسباني معلومات النادي النادي الحالي بنغلاديش (مدرب) ...

Legislative Assembly constituency in Karnataka State, India JagalurConstituency No. 103 for the Karnataka Legislative AssemblyConstituency detailsCountryIndiaRegionSouth IndiaStateKarnatakaDistrictDavanagere and VijayanagaraLS constituencyDavangereEstablished1961Total electors193,028[1]ReservationSTMember of Legislative Assembly16th Karnataka Legislative AssemblyIncumbent B. Devendrappa PartyIndian National CongressElected year2023Preceded byS. V. Ramachandra Jagalur Assembly constitu...

 

 

العلاقات الجيبوتية الميانمارية جيبوتي ميانمار   جيبوتي   ميانمار تعديل مصدري - تعديل   العلاقات الجيبوتية الميانمارية هي العلاقات الثنائية التي تجمع بين جيبوتي وميانمار.[1][2][3][4][5] مقارنة بين البلدين هذه مقارنة عامة ومرجعية للدولتين: وجه ا...