Tàu ngầm Type B Cải tiến 1 (lớp I-40) (còn gọi là Type B2) được cải tiến từ Type B1 dẫn trước, có trọng lượng hơi lớn hơn và trang bị động cơ diesel có thiết kế đơn giản hơn nhằm thúc đẩy việc chế tạo.[1] Chúng có trọng lượng choán nước 2.631 tấn (2.589 tấn Anh) khi nổi và 3.713 tấn (3.654 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 108,7 m (356 ft 8 in), mạn tàu rộng 9,3 m (30 ft 6 in) và mớn nước sâu 5,1 m (16 ft 9 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[3] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 94 sĩ quan và thủy thủ.[1]
Type B2 trang bị hai động cơ dieselKampon Mk.1A Model 10 công suất 5.500 mã lực phanh (4.101 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.000 mã lực (746 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 23,5 hải lý trên giờ (43,5 km/h; 27,0 mph) và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn dưới nước,[4] tầm xa hoạt động của Type B2 là 14.000 hải lý (26.000 km; 16.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 96 nmi (178 km; 110 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[5]
Chiến công đầu tiên của Đội đặc nhiệm 11.1 diễn ra lúc 14 giờ 08 phút ngày 4 tháng 4.[8] Một máy bay ném bom-ngư lôiTBM-1C Avenger cùng một máy bay tiêm kíchGeneral Motors FM-2 Wildcat thuộc Liên Đội Hỗn hợp VC-66 xuất phát từ Altamaha đã phát hiện I-45 đang di chuyển trên mặt nước để nạp điện ắc-quy, cách chiếc tàu sân bay 108 nmi (200 km) về phía Tây ở vị trí 650 nmi (1.200 km) về phía Đông Bắc Majuro.[7] Chiếc FM-2 Wildcat đã bắn phá trong khi chiếc Avenger bắn rocket và thả mìn sâu tấn công. I-45 bị đánh trúng phía đuôi và bị rò rỉ đáng kể, nên hạm trưởng quyết định chạy lùi hết tốc độ và lặn xuống.[7] Các đội bay nhìn thấy chiếc tàu ngầm đứng im và chìm xuống giữa một vệ dầu loang lớn, nên tin ràng họ đã đánh chìm được tàu ngầm đối phương.[7] Trong khi đó, hạm trưởng I-45 ra lệnh cho con tàu chạy tới hết tốc độ, nhưng nó mất kiểm soát và chìm xoay tròn cho đến độ sâu 490 ft (150 m), trước khi lấy lại kiểm soát và thăng bằng ở độ sâu 330 ft (100 m).[7] Cho dù sống sót qua đợt tấn công, chiếc tàu ngầm bị hư hại nặng và buộc phải quay trở về Nhật Bản.[7] Nó về đến Yokosuka vào ngày 15 tháng 4,[7] và tiếp tục đi đến Kure để được sửa chữa tại Xưởng vũ khí Hải quân Kure từ cuối tháng 4; công việc kéo dài cho đến cuối tháng 5. [7]
Chiến dịch quần đảo Mariana
Lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ bộ lên vào ngày 12 tháng 6, bắt đầu Chiến dịch quần đảo Mariana, nên vào ngày 13 tháng 6, Tổng tư lệnh Hạm đội Liên hợp, Đô đốcSoemu Toyoda, kích hoạt Kế hoạch A-Go nhằm phòng thủ quần đảo Mariana.[7]I-45 xuất phát từ Yokosuka vào ngày 28 tháng 6 để cùng với I-55 hướng sang Tinian, Mariana, kéo theo một thùng Unkato,[7] một kiểu thùng chứa tiếp liệu ngầm dưới nước dài 135 ft (41 m) có thể chứa đến 377 tấn tiếp liệu, được thiết kế cho những chuyến đi tiếp liệu một chiều để người nhận hàng có thể thu hồi và chất dỡ hàng hóa.[9] Với thùng Unkato chất đầy vũ khí và đạn dược, chiếc tàu ngầm gặp phải thời tiếtxấu với biển động mạnh trên đường đi, và nó được lệnh chuyển hướng đến Guam để giải cứu các phi công Không lực Hải quân bị mắc kẹt trên đảo này.[7] Chiếc tàu ngầm tìm cách bắt liên lạc với lực lượng trên bộ tại Guam trong các ngày 14 và 16 tháng 7 nhằm chuyển giao thùng và đón các phi công, nhưng đã không thành công do liên lạc vô tuyến nhiễu loạn.[7] Cuối cùng nó phải cắt bỏ thùng Unkato ngoài biển và lên đường quay trở về Nhật Bản, về đến Yokosuka vào ngày 27 tháng 7, và sau đó đi đến Kure.[7]
Đến 03 giờ 25 phút, một vụ nổ dưới nước bắt nguồn từ xác tàu đắm của Eversole, giết chết khoảng 30 người trong số những người sống sót và làm một số khác bị thương.[7] Lúc đó Richard S. Bull đã đến nơi và bắt đầu tìm kiếm những người sống sót, trong khi tàu hộ tống khu trục USS Whitehurst (DE-634), được cho tách ra từ thành phần hộ tống cho một tàu tiếp dầu hạm đội gần đó, bảo vệ chống tàu ngầm chung quanh.[7] Đến 06 giờ 30 phút, Richard S. Bull vớt được 139 người sống sót khỏi mặt nước, nhưng ba người từ trần sau đó.[7]Eversole bị mất tổng cộng 77 thành viên thủy thủ đoàn.[7]
Trước đó từ 05 giờ 45 phút, Whitehurst phát hiện qua sonar một tàu ngầm dưới nước ở vị trí 85 nmi (157 km) về phía Đông Bắc đảo Siargao, cách vị trí Eversole bị đắm khoảng 50 nmi (93 km).[7]Whitehurst tấn công với ba loạt đạn súng cối chống ngầm Hedgehog nhưng đều không trúng đích, do đối phương tích cực cơ động né tránh và lặn xuống đến độ sâu 225 ft (69 m).[7] Đến 06 giờ 48 phút, Whitehurst bắn ra loạt súng cối Hedgehog thứ tư, nghe thấy năm hoặc sáu vụ nổ nhỏ trước khi xảy ra một vụ nổ dữ dội, khiến chấn động cả con tàu và dàn sonar của nó tạm thời bị hỏng.[7]Whitehurst tiếp tục tìm kiếm lúc 07 giờ 20 phút, phát hiện nhiều dầu diesel cùng nhiều mảnh gỗ trồi lên mặt nước; nó kết thúc việc tìm kiếm lúc 12 giờ 15 phút để quay trở lại nhiệm vụ hộ tống.[7] Vụ nổ, vệt dầu loang cùng những mảnh vỡ khẳng định tàu ngầm đối phương, có thể là I-45, đã bị đánh chìm tại tọa độ 10°10′B127°28′Đ / 10,167°B 127,467°Đ / 10.167; 127.467.[7]
Đến ngày 5 tháng 11, Bộ tư lệnh Đệ Lục hạm đội ra lệnh cho I-45 chuyển sang khu vực tuần tra mới về phía Đông vịnh Lamon, nhưng chiếc tàu ngầm đã không hồi đáp.[7] Đến ngày 2 tháng 12, Hải quân Đế quốc Nhật Bản công bố I-45 có thể đã bị mất ngoài khơi Philippines với tổn thất toàn bộ 104 thành viên thủy thủ đoàn.[7] Tên nó được cho rút khỏi đăng bạ hải quân vào ngày 10 tháng 3, 1945.[6][7]
Milanovich, Kathrin (2021). “The IJN Submarines of the I 15 Class”. Trong Jordan, John (biên tập). Warship 2021. Oxford, UK: Osprey Publishing. tr. 29–43. ISBN978-1-4728-4779-9.
Stille, Mark (2007). Imperial Japanese Navy Submarines 1941-45. New Vanguard. 135. Botley, Oxford, UK: Osprey Publishing. ISBN978-1-84603-090-1.
Liên kết ngoài
“I-45 ex No-375”. ijnsubsite.com. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2024.