Hyūga được đặt lườn bởi Mitsubishi vào ngày 6 tháng 5 năm 1915, được hạ thủy vào ngày 27 tháng 1 năm 1917 và hoàn tất vào ngày 30 tháng 4 năm 1918. Thoạt đầu nó được thiết kế như chiếc thứ tư trong lớp Fusō, nhưng được thiết kế lại đáng kể nhằm khắc phục các thiếu sót.
Lịch sử hoạt động
Hyūga được nâng cấp đáng kể và cấu trúc lại từ năm 1926 đến năm 1928 và từ năm 1934 đến năm 1936. Sau hậu quả thảm hại của trận Midway, Hải quân Nhật xem xét kế hoạch chuyển đổi tất cả các thiết giáp hạm, ngoại trừ hai chiếc lớn nhất là Yamato và Musashi, thành những tàu sân bay. Cuối cùng, do không đủ thời gian và nguồn lực, Hải quân quyết định chỉ cải tạo những chiếc thiết giáp hạm cũ nhất và ít hữu dụng nhất thành tàu sân bay lai. Hyūga được chế tạo lại tại Xưởng hải quân Sasebo từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 1 tháng 10 năm 1943. Hyūga và chiếc tàu chị em Ise được tháo dỡ hai tháp pháo 356 mm (14 inch) phía sau (nặng 864 tấn mỗi cái) và các tháp súng (nặng 800 tấn mỗi cái). Chúng được thay thế bằng một sàn đáp nhỏ và sàn chứa để có thể phóng một phi đội máy bay. Để bù trừ cho trọng lượng bị mất và cũng để duy trì chiều cao của trọng tâm con tàu, sàn đáp được phủ một lớp bê tông dày 200 mm (8 inch). Nó cũng được trang bị một thang nâng máy bay.
Vũ khí phòng không cũng được bổ sung để tăng cường khả năng chống đỡ các cuộc không kích. Lực lượng máy bay phối thuộc bao gồm 14 chiếc máy bay ném bom bổ nhàoYokosuka D4Y và 8 chiếc thủy phi cơAichi E16A đều được phóng lên bằng máy phóng, nhưng chỉ có thể hạ cánh trên các tàu sân bay thông thường hoặc các căn cứ trên đất liền. Chúng sẽ được đưa trở lên tàu bằng cần trục. Vì việc sản xuất máy bay đã sụt giảm đáng kể vào lúc đó, Hyūga chưa bao giờ chở đủ số lượng máy bay như được trù định.