Grenville được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Swan Hunter and Wigham Richardson Ltd. ở Wallsend-on-Tyne. Nó được đặt lườn vào ngày 1 tháng 11 năm 1941; được hạ thủy vào ngày 12 tháng 10 năm 1942 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia vào ngày 27 tháng 5 năm 1943. Là một soái hạm khu trục, nó tuân theo truyền thống được đặt theo tên những nhà chỉ huy hải quân nổi bật, lần này là Phó đô đốcRichard Grenville, nhà chỉ huy hải quân thời Elizabeth I.
Vào ngày 4 tháng 10, Grenville can dự vào một cuộc đụng độ với tàu khu trục đối phương, nơi nó bị bắn trúng và chịu đựng một số thương vong. Đến cuối tháng 10, trong một đợt càn quét khác chống vượt phong tỏa, nó đã cùng tàu tuần dươngHMS Charybdis và các tàu khu trục khác tham gia Trận Sept-Îles ngoài khơi bờ biển Brittany, nơi Charybdis cùng với tàu khu trục lớp HuntHMS Limbourne bị các tàu phóng lôilớp Elbing đánh chìm. Đến tháng 11, nó gia nhập Chi hạm đội Khu trục 24 trong thành phần Hạm đội Địa Trung Hải. Tại đây, nó đã hỗ trợ cho Chiến dịch Shingle, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Anzio, đánh chìm một tàu khu trục và một tàu phóng lôi E-boat cũng như phá hủy một đoàn tàu hỏa gần San Giorgio di Nogaro trên bờ biển Adriatic. Vào ngày 3 tháng 12, nó được lệnh tiếp nhiên liệu, và đã đi đến ngay sau khi diễn ra cuộc Không kích Bari, nơi xảy ra một thảm họa nhiễm độc khí mù tạc rò rỉ từ một tàu chở hàng bị trúng bom.[3]
Vào tháng 5 năm 1944, Grenville quay trở về Anh, và đến tháng 6 đã tham gia Chiến dịch Neptune, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Normandy. Đến cuối năm 1944, sau khi được tái trang bị tại Humber, nó lên đường đi sang Ấn Độ Dương để tham gia các hoạt động chống Nhật Bản. Vào tháng 1 năm 1945, nó cùng ba tàu khu trục lớp U khác hình thành nên Chi hạm đội Khu trục 26, hộ tống cho lực lượng tàu sân bay Anh thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 63 vốn sẽ trở thành Hạm đội Thái Bình Dương. Sau các cuộc không kích lên các căn cứ của quân Nhật tại Sumatra, Lực lượng Đặc nhiệm 63 lên đường đi Okinawa ngang qua Sydney, Australia, nơi họ không kích các sân bay Nhật Bản hỗ trợ cho Chiến dịch Iceberg tức Trận Okinawa. Sau đó nó tham gia các cuộc không kích cuối cùng lên chính quốc Nhật Bản.
Sau chiến tranh
Grenville được sử dụng như một tàu mục tiêu huấn luyện không quân vào tháng 10 năm 1951. Nó va chạm với chiếc tàu ÝAlceo ngoài khơi Start Point, Devon; ba thành viên thủy thủ đoàn đã thiệt mạng và bốn người khác mất tích trong tai nạn này. Trong những năm 1953-1954, nó được cải biến rộng rãi và tái vũ trang thành một tàu frigateKiểu 15. Từ năm 1955 đến năm 1958, nó là soái hạm của Hải đội Huấn luyện 2.[4] Con tàu sau đó được trang bị một cột ăn-ten thứ ba mang kiểu radar dò tìm không trung thử nghiệm trước khi được đưa vào hoạt động tác chiến chính thức trên lớp tàu sân bay Invincible.
Grenville đã tham gia Ngày Hải quân tại Portsmouth năm 1967;[5] rồi lại có mặt trong Ngày Hải quân tại Portsmouth năm 1970 khi nó là một tàu thử nghiệm vũ khí mặt biển.[6]Grenville được cho ngừng hoạt động vào năm 1974 và bị bỏ không tại Portsmouth trước khi bị tháo dỡ vào năm 1983.
Marriott, Leo (1983). Royal Navy Frigates 1945-1983. Ian Allen. ISBN9780711013223.
Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN978-1-86176-281-8. OCLC67375475.
Raven, Alan; Roberts, John (1976). Ensign 6 War Built Destroyers O to Z Classes. London: Bivouac Books. ISBN0-85680-010-4.