Badsworth thuộc vào số 33 chiếc tàu khu trục lớp Hunt nhóm II, có mạn tàu rộng hơn nhóm I, tạo độ ổn định cho một tháp pháo QF 4 in (100 mm) Mark XVI nòng đôi thứ ba, cũng như cho phép tăng số lượng mìn sâu mang theo từ 40 lên 110.
Sau khi quay trở về từ Tây Phi vào tháng 1 năm 1942, Badsworth tiếp nối nhiệm vụ hộ tống vận tải tại Derry. Vào ngày 23 tháng 3, nó cùng các tàu khu trục Beverley (H64), Keppel (D84), Newport (G54), Leamington (G19) và Volunteer (D71) tham gia thành phần hộ tống cho Đoàn tàu WS-17 khởi hành từ Clyde băng qua Khu vực Tiếp cận Tây Bắc; Newport phải rút lui về Clyde vào ngày 25 tháng 3 sau khi mắc tai nạn va chạm với Beverley. Badsworth cùng thành phần còn lại của lực lượng hộ tống tách khỏi đoàn tàu vào ngày 27 tháng 3.[4]
Trong tháng 4, Badsworth tham gia Chiến dịch Myrmidon, một kế hoạch đột kích bằng lực lượng biệt kích Commando vào vùng Bayonne tại miền Tây Nam nước Pháp.[7] Nó cùng bốn tàu khu trục lớp Hunt khác sẽ hộ tống các tàu chở quân đổ bộ Queen Emma và Princess Beatrix đưa các đơn vị Commando số 1 và số 6 đến khu vực cửa sông Adour;[8][9] tuy nhiên kế hoạch đột kích bị hủy bỏ do thời tiết xấu và đối phương đã cảnh giác báo động.[10] Sau đó Badsworth quay trở về Derry, cùng với Georgetown (I-40), Lauderdale (L95) và Lancaster hộ tống Đoàn tàu WS-18 vào ngày 18 tháng 4, rồi quay trở về Clyde.
Badsworth sau đó được điều sang nhiệm vụ hộ tống các Đoàn tàu vận tải Bắc Cực. Vào ngày 28 tháng 4, nó tham gia hộ tống Đoàn tàu PQ-15 cùng với tàu tuần dương hạng nhẹNigeria, tàu tuần dương phụ trợ phòng không Ulster Queen và các tàu khu trục Boadicea, Matchless, Somali, Venomous and St Albans.[a] Sang ngày 2 tháng 5, lực lượng chịu đựng những đợt tấn công kéo dài bởi máy bay và tàu ngầm đối phương. Tàu buôn Botavon bị đánh trúng và chìm dần ở phía mũi; Badsworth được lệnh đánh đắm Botavon bằng hải pháo.[11] Nó cũng nhìn thấy kính tiềm vọng của một tàu ngầm đối phương, và đã tấn công với hai lượt mìn sâu. Sau đó hệ thống sonar ASDIC của nó bị hỏng nên không thể tiếp tục truy tìm tàu ngầm đối phương.[11]
Sang ngày hôm sau, Badsworth tham gia tìm kiếm những người sống sót từ các tàu buôn Anh Cape Corso và Jutland vốn bị đắm do không kích. Vào ngày 5 tháng 5, chiếc tàu khu trục tách khỏi Đoàn tàu PQ-15 sau khi đi đến Murmansk, và ở lại miền Bắc nước Nga cho đến ngày 21 tháng 5, khi nó tham gia Đoàn tàu QP-12 trong hành trình quay trở về. Thành phần hộ tống QP-12 còn bao gồm Ulster Queen, các tàu khu trục Venomous,Boadicea, Escapade, Inglefield và St Albans, tàu quét mìn Harrier và ba tàu đánh cá vũ trang. Badsworth cùng Venomous và Ulster Queen tách khỏi QP-12 vào ngày 27 tháng 5.[12]
Vào ngày 14 tháng 6, đoàn tàu chịu đựng các đợt không kích nặng nề, gây hư hại cho tàu tuần dương hạng nhẹ Liverpool (C11), buộc nó phải quay trở lại Gibraltar. Sang ngày hôm sau, đoàn tàu tiếp tục đụng độ với các tàu chiến Ý đang tìm cách ngăn chặn và tiêu diệt đoàn tàu tiếp liệu.[14] Đến ngày 16 tháng 6, Badsworth chịu đựng hư hại cấu trúc nặng nề khi nó trúng phải thủy lôi trên đường đi vào Grand Harbour, Malta. Nó đi vào cảng cùng hai tàu buôn của đoàn tàu còn sống sót vào lúc trời tối, cùng với sai lầm trong tín hiệu nhận được về luồng tàu được quét mìn an toàn, khiến đoàn tàu đi vào một bãi mìn. ORP Kujawiak bị đắm do trúng mìn, trong khi Matchless, tàu quét mìn Hebe và tàu buôn Orari cũng bị hư hại.[16]
Badsworth bị hư hại một lổ thủng 12 ft × 15 ft (3,7 m × 4,6 m) ở cấu trúc phía trước tàu bên dưới mực nước. Trong số 14 thương vong có những thành viên thủy thủ đoàn sống sót của các tàu buôn bị đánh chìm trước đó. Sang ngày hôm sau 15 tháng 6, nó vào ụ của Xưởng tàu Malta, nơi nó được sửa chữa tạm thời cho chuyến đi quay trở về Anh, vốn kéo dài cho đến ngày 11 tháng 8. Nó cùng Matchless rời Malta hộ tống cho Lực lượng Y đi Gibraltar, vốn là hai tàu buôn duy nhất còn sống sót của Chiến dịch Harpoon.[17] Chuyến đi quay trở về Gibraltar, trong khuôn khổ Chiến dịch Ascendant, được vạch định để trùng hợp với Chiến dịch Pedestal, đợt tiếp liệu tiếp theo từ Gibraltar đến Malta. Các con tàu về đến Gibraltar vào ngày 15 tháng 8, và nó rời cảng ba ngày sau đó cho hành trình quay trở về Anh. Vào ngày 25 tháng 8, chiếc tàu khu trục vào xưởng tàu North Shields để sửa chữa.[4]
Việc sửa chữa kéo dài cho đến tháng 11, và sau đó việc chạy thử máy sau đại tu cùng những chuẩn bị hoạt động khác chỉ kết thúc vào tháng 12. Badsworth gia nhập Lực lượng Hộ tống Londonderry làm nhiệm vụ hô tống vận tải tại Bắc Đại Tây Dương. Vào ngày 18 tháng 12, nó cùng các tàu khu trục Haydon (L75) và Wolverine (D78) tham gia hộ tống cho Đoàn tàu WS25 cho chặng đầu của hành trình đi sang Freetown; chúng tách khỏi đoàn tàu vào ngày 24 tháng 12 để quay trở về Clyde.
Sau đó Badsworth được bố trí hoạt động tại khu vực Tây Địa Trung Hải để tuần tra và hộ tống vận tải. Vào ngày 22 tháng 4, nó bị trúng mìn ngoài khơi Bone, Algeria, bị hư hại cấu trúc phía đuôi tàu. Động cơ bên mạn phải ngừng hoạt động, và cả hai trục chân vịt đều bị hư hại. Con tàu phải tự mắc cạn, phải được cho nổi trở lại và được chiếc tàu quét mìnClacton (J151) kéo về cảng. Nó được sửa chữa tạm thời tại Malta trong tháng 5, và sau khi hoàn tất được chiếc tàu kéoFrisky kéo về Anh trong thành phần Đoàn tàu MKS-15. Chiếc tàu khu trục được sửa chữa tại một xường tàu tư nhân ở Liverpool từ tháng 7. Nó được rút khỏi biên chế Hải quân Hoàng gia vào ngày 16 tháng 11, 1944.[4][19]
HNoMS Arendal
Badsworth được quyết định chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Na Uy mượn vào ngày 8 tháng 8, 1944 và được đổi tên thành HNoMS Arendal. Nó được phối thuộc hoạt động cùng Chi hạm đội Khu trục 16 (Anh), đặt căn cứ tại Harwich, hoạt động tuần tra và hộ tống vận tải tại Bắc Hải và eo biển Manche. Vào ngày 25 tháng 3, 1945, nó cùng với tàu khu trục Ba Lan Krakowiak đụng độ với các tàu phóng lôiE-boat đối phương hoạt động rải mìn tại khu vực cửa sông Thames.[4]
Arendal tiếp tục hoạt động cho đến khi xung đột kết thúc tại Châu Âu vào đầu tháng 5, 1945, khi thỏa thuận cho mượn con tàu được tiếp tục gia hạn. Nó tham gia Chiến dịch Kingdom, hộ tống cho Thái tử Olav quay về Oslo bên trên tàu rải mìnHMS Ariadne.[20][21] Nó sau đó quay trở lại Anh, đi đến Leith, Scotland, nơi nó chuyển 400 hài cốt binh lính Na Uy tử trận trong chiến tranh hồi hương. Khi về đến Oslo, nghi thức đón tiếp có sự hiện diện của Vua Haakon VII, Thái tử Olav, Hoàng tử Harald và Giám mục Eivind Berggrav, các đơn vị quân đội và đông đảo dân chúng.[22] Nó cũng hộ tống các tàu đổ bộ đi từ Anh đến Na Uy; những tàu này được chính phủ Na Uy mua để cải biến thành phà ven biển và tàu chở hàng. Nhiều lần nó đã đi đến Đức hộ tống tàu bè chở binh lính Đức hồi hương về Bremerhaven, ở phía Tây Bắc nước Đức.[4][23]
Arendal được Anh bán đứt cho Na Uy vào năm 1946.[24] Nó được sử dụng như tàu khu trục hộ tống cho đến năm 1956, khi nó được xếp lại lớp như một tàu frigate. Con tàu được sử dụng trong việc huấn luyện học viên sĩ quan cho đến khi ngừng hoạt động vào năm 1961 và bị tháo dỡ năm 1965.[4][25][26]
Tham khảo
Ghi chú
a.^ Tàu ngầm HMS Sturgeon của Hải quân Hoàng gia thoạt tiên cũng có mặt cùng đoàn tàu vận tải, cũng như tàu tuần dương HMS London. Việc di chuyển của đoàn tàu được bảo vệ từ xa một phần bởi các tàu chiến thuộc Hạm đội Nhà.[27]
^“War in the Mediterranean”. The Royal Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2009. Chiến dịch Địa Trung Hải chủ yếu diễn ra chung quanh Malta, nơi đặt căn cứ tàu chiến, tàu ngầm và máy bay để tấn công tuyến đường tiếp liệu của Ý và Đức sang các binh đoàn tại Bắc Phi. Những chiến dịch vận tải tiếp liệu lớn được tổ chức nhằm giữ vững Malta khi đảo này suýt thất thủ.
Bjørnsson, Nils (1994). Å være eller ikke være - Under orlogsflagget i den annen verdenskrig. Sjømilitære Samfund ved Norsk Tidsskrift for Sjøvesen. ISBN82-990969-3-6.
Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN978-1-86176-281-8. OCLC67375475.
Critchley, Mike (1982). British Warships Since 1945: Part 3: Destroyers. Liskeard, UK: Maritime Books. ISBN0-9506323-9-2.
English, John (1987). The Hunts: A history of the design, development and careers of the 86 destroyers of this class built for the Royal and Allied Navies during World War II. World Ship Society. ISBN0-905617-44-4.
Jane, Frederick Thomas (1968). Jane's Fighting Ships. Marston and Co.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về HMS Badsworth (L03).
“No. 38377”. The London Gazette (invalid |supp= (trợ giúp)). ngày 10 tháng 8 năm 1948. The official despatch to the Admiralty describing Operation Harpoon.