Đến tháng 11Anthony hoạt động cùng với Đội hộ tống 4 tại khu vực Tiếp cận phía Tây. Vào tháng 2 năm 1941 nó bị hư hại bởi một cuộc không kích nhắm vào tàu bè trên sông Clyde, nhưng đã quay lại phục vụ cùng Chi hạm đội Khu trục 3 trong tháng sau. Nó trải qua những tháng tiếp theo hộ tống các con tàu tham gia rải mìn, và vào ngày 23 tháng 5 đã hình thành nên lực lượng hộ tống cho tàu chiến-tuần dươngHMS Hood và thiết giáp hạm HMS Prince of Wales khi chúng truy tìm thiết giáp hạm ĐứcBismarck. Nó được cho tách ra để tiếp nhiên liệu tại Iceland vào ngày 24 tháng 5, nên đã lỡ mất Trận chiến eo biển Đan Mạch nơi chiếc Hood bị đánh chìm, nhưng sau đó đã gia nhập trở lại cùng Prince of Wales. Các nhiệm vụ hộ tống nối tiếp theo, bao gồm các hoạt động ngoài khơi bờ biển Na Uy trong tháng 7 và tháng 8, kể cả tham gia vào Chiến dịch Gauntlet, cuộc bắn phá Spitsbergen vào ngày 19 tháng 8.
Vào thời khắc quyết định trong chiến dịch Ironclad, lực lượng đổ bộ chính bị cầm chân phía Tây Diego Suarez do sự kháng cự mạnh bất ngờ của phe Vichy Pháp. Bế tắc được giải tỏa khi Đô đốcEdward Neville Syfret phái Anthony xông thẳng qua hàng rào phòng thủ cảng Diego Suarez để đổ bộ 50 lính Thủy binh Hoàng gia vào giữa hậu tuyến của phe Vichy, gây ra sự rối loạn và phá vỡ hệ thống phòng thủ. Diego Suarez đầu hàng vào ngày 7 tháng 5.[1]
Chiến dịch hoàn tất thành công vào tháng 5, và sau đó Anthony tiếp tục ở lại khu vực Địa Trung Hải. Đến tháng 9 nó hộ tống thiết giáp hạm Royal Sovereign đi sang Hoa Kỳ, rồi quay trở về vùng biển châu Âu vào tháng 10 trong thành phần hộ tống cho đoàn tàu vận tải chuyển binh lính tham gia Chiến dịch Torch. Anthony được tái trang bị vào cuối năm 1942, rồi được bố trí cùng Chi hạm đội Khu trục 13 vào đầu năm 1943, trải qua nữa đầu năm hộ tống các đoàn tàu vận tải chuyển quân dọc bờ biển Tây Phi và Tây Địa Trung Hải. Nó hỗ trợ cho chiến dịch đổ bộ lên Sicilia trong tháng 7, rồi trải qua phần còn lại của năm hộ tống các đoàn tàu vận tải tại Địa Trung Hải. Vào ngày 24 tháng 2 năm 1944, nó cùng với HMS Wishart và máy bay của Liên đội 202 Không quân Hoàng gia và của Hải quân Mỹ đã đánh chìm tàu ngầm Đức U-761 về phía Tây Gibralta. Anthony quay trở về Anh vào tháng 9, hộ tống các đoàn tàu vận tải tại khu vực Tiếp cận phía Tây và eo biển Anh Quốc. Vào ngày 24 tháng 12, nó cùng với tàu khu trục HMS Brilliant hộ tống cho chiếc tàu chở quân Leopoldville khi chiếc này bị tàu ngầm U-486 phóng ngư lôi đánh chìm với tổn thất nhân mạng nặng nề.
Vào đầu năm 1945, Anthony được cải biến thành một tàu mục tiêu dành cho không lực nhằm huấn luyện các phi công mới nhận diện tàu chiến và phương pháp tấn công. Nó chu toàn nhiệm vụ này cho đến khi chiến tranh kết thúc, cho đến tháng 1 năm 1946.
Sau chiến tranh – Loại bỏ
Anthony được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 27 tháng 3 năm 1946, và chuẩn bị để loại bỏ. Tuy nhiên, nó được huy động trở lại vào tháng 9, sử dụng trong thử nghiệm kiểm soát hư hỏng cho đến tháng 2 năm 1948. Nó bị bán để tháo dỡ vào ngày 21 tháng 2, và được kéo đến xưởng tháo dỡ của hãng British Steel tại Troon, Ayrshire vào tháng 5 năm 1948.
Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN978-1-86176-281-8. OCLC67375475.
Winser, John de D. (1999). B.E.F. Ships Before, At and After Dunkirk. Gravesend, Kent: World Ship Society. ISBN0-905617-91-6.