Ngày 18 tháng 7 năm 1943, nó được đưa đến Vancouver, British Columbia tại Canada, được chuyển cho Anh Quốc theo chương trình Cho thuê-cho mượn, được đổi tên thành HMS Ameer (D01), và đã phục vụ trong chiến tranh như một chiếc thuộc lớp Ameer. Nó được tái trang bị theo những yêu cầu của Hải quân Hoàng gia, bao gồm việc kéo dài sàn đáp, trang bị hệ thống sonar ASDIC, thay đổi hệ thống chữa cháy và thông gió, và thay đổi kho chứa bom và thủy lôi để có thể chấp nhận vũ khí của cả Anh hay Mỹ.
Vào đầu năm 1945, Ameer gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 61 để hỗ trợ cho "Chiến dịch Lightning", cuộc tấn công đổ bộ của các đơn vị Thủy binh Hoàng gia và Lục quân xuống Akyab ở Burma. Tuy nhiên, lực lượng Nhật Bản đã rút lui khỏi khu vực then chốt này 48 giờ trước đó, khiến cho cuộc bắn phá mãnh liệt được tiến hành trở nên không cần thiết.
Hoạt động tiếp theo của Ameer là trong Chiến dịch Matador nhằm chiếm đảo Ramree, khi máy bay của nó trinh sát điểm rơi pháo cho thiết giáp hạmHMS Queen Elizabeth vào ngày 21 tháng 1 năm 1945. Mục đích của cuộc bắn phá là nhằm vô hiệu hóa các khẩu đội phòng thủ duyên hải Nhật Bản chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của các Lữ đoàn 71 và Lữ đoàn 4. Vài ngày sau, Ameer hỗ trợ cho việc đổ bộ lên đảo Cheduba lân cận của lực lượng Thủy binh Hoàng gia trong Chiến dịch Sankey, và một lần nữa không gặp sự kháng cự; do toàn bộ hòn đảo không bị chiếm đóng.
Vào tháng 6 năm 1945, Lực lượng Đặc nhiệm 63, bao gồm Ameer và các tàu chị em HMS Khedive và HMS Stalker, rời Trincomalee tham gia Chiến dịch Balsam, cuộc trinh sát thứ ba và là cuối cùng bên trên Malaya. Vào ngày 20 tháng 6, khi đến lúc kết thúc chiến dịch, phi công của lực lượng đặc nhiệm đã thực hiện các cuộc tấn công càn quét. Máy bay Hellcat của Ameer phối hợp cùng Phi đội 808 và những chiếc Supermarine Seafire của Phi đội 809 đã tấn công các căn cứ sân bay Nhật Bản tại Lhoksemawe, Medan và Bindjai bắn phá các cơ sở và máy bay trên mặt đất. Hỏa lực phòng không đẵ bắn rơi một chiếc Hellcat.
Những hoạt động cuối cùng của Ameer là nhằm hỗ trợ các hoạt động quét mìn tại các địa điểm đổ bộ tiềm năng. Hoạt động thứ nhất, cùng với tàu sân bay hộ tống HMS Emperor, tàu tuần dương hạng nhẹ HMS Nigeria và các tàu khu trục HMS Roebuck, HMS Eskimo và HMS Vigilant, đã hỗ trợ trên không và bắn phá ngoài khơi quần đảo Nicobar trong ngày 9 và 10 tháng 7. Hoạt động thứ hai, Chiến dịch Livery, bắt đầu vào ngày 24 tháng 7, dọn sạch các lối tiếp cận đến đảo Phuket ngoài khơi eo đất Kra, có thiết giáp hạm HMS Nelson trong thành phần lực lượng bảo vệ. Ngày 25 tháng 7, Lực lượng Đặc nhiệm 63 chịu đựng những đợt ném bom và tấn công tự sát kamikaze, khiến tàu quét mìnHMS Vestal bị đánh trúng. Nhật Bản đầu hàng ba tuần sau đó.
Lực lượng không quân phối thuộc
Như là một tàu sân bay chiến đấu, HMS Ameer có thể mang cho đến 24 máy bay. Trong hoạt động thường trực, nó hầu như mang kiểu máy bay tiêm kích Mỹ Grumman Hellcat II (ban đầu gọi là Gannet), mặc dù cũng từng mang Grumman Wildcat V (ban đầu gọi là Martlet), cũng như là kiểu thủy phi cơWalrus I vào cuối chiến tranh: