Sau khi chiến tranh kết thúc, Quadrant được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Australia nhằm hoán đổi với một tàu khu trục lớp N, và phục vụ trong hai năm trước khi đưa về lực lượng dự bị. nó được cải biến thành một tàu frigatechống tàu ngầm vào năm 1950, và nhập biên chế trở lại cùng Hải quân Hoàng gia Australia từ năm 1953 đến năm 1957, khi nó được loại bỏ. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào năm 1963.
Quadrant được chế tạo theo thiết kế lớp Q thời chiến, thuộc Chi hạm đội Khẩn cấp 3. Các con tàu này có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.692 tấn Anh (1.719 t), và lên đến 2.411 tấn Anh (2.450 t) khi đầy tải.[3] Nó có chiều dài chung 358 foot 3 inch (109,19 m) và chiều dài ở mực nước là 339 foot 6 inch (103,48 m); mạn thuyền rộng 35 foot 9 inch (10,90 m).[3] Động lực được cung cấp bởi hai nồi hơi Admiralty ba nồi gắn liền với hai turbine hơi nước Parsons, cung cấp một công suất 40.000 shp (30.000 kW) để dẫn động hai trục chân vịt.[4]Quadrant có khả năng đạt tốc độ 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph).[3] Thủy thủ đoàn của con tàu bao gồm 220 sĩ quan và thủy thủ.[4]
Trong quá trình cải biến, mọi vũ khí trước đây của Quadrant được tháo dỡ, thay bằng hai khẩu pháo 4 inch, hai pháo phòng không Bofors 40 mm, và hai súng cốiSquid chống tàu ngầm.[5] Việc cải biến hoàn tất vào giữa năm 1953, và con tàu nhập biên chế trở lại cùng Hải quân Hoàng gia Australia vào ngày 16 tháng 7.[6]
Quadrant được cho xuất biên chế tạo Sydney vào ngày 16 tháng 8 năm 1957; nó bị bán cho hãng Nhật Bản Kinoshita and Company Limited để tháo dỡ vào ngày 15 tháng 2 năm 1963.[5]
Tham khảo
Chú thích
^Festberg, Alfred N. (1981). Heraldry in the Royal Australian Navy. Melbourne, VIC: Silverleaf Publishing. tr. 56–7. ISBN9780949746009.
^Lenton, H. T. (1998). British and Empire Warships of the Second World War. Greenhill Book. ISBN9781557500489.