Gia Bình là vùng đất cổ phù sa màu mỡ bên sông Đuống, nên từ ngàn xưa đã có cư dân Việt cổ về đây sinh cơ lập nghiệp và để lại dấu ấn là những khu cư trú mộ táng, địa danh, di tích và tín ngưỡng. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện ở xã Lãng Ngâm có di chỉ cư trú và mộ táng với những di vật bằng đồng như: rìu, búa, giáo, mác thuộc văn hóa Đông Sơn (cách ngày nay khoảng 4000 năm). Đó còn là hiện tượng tín ngưỡng, hàng loạt các làng xã nằm ven sông Đuống và sông Bái Giang thờ "Lạc Thị đại vương" (tức dòng dõi Lạc Long Quân) là các bậc thủy tổ dân tộc, tiêu biểu là đình Văn Lãng của thôn Đại Bái thờ "Lạc Thị đại vương" còn giữ được sắc phong niên đại Cảnh Hưng 44 (1783) cho biết khá rõ về người được thờ như sau: "Sắc phong cho ba vị đại vương thuộc dòng dõi Lạc Long Quân linh thiêng ở Đại Việt. Là tinh khí tạo thành, do núi sông hun đúc. Gốc từ trăm trứng mà ra, lập ra cơ đồ ở cõi trời Nam. Mở nền thịnh trị một phương, từ phía Bắc trở lại trừ diệt tai ách, khiến cho mạch nước được yên, từng che chở cho dân ta, tiếng tăm lừng lẫy, thật là đáng được ca ngợi. Vì nhà vua mới lên ngôi báu, trông coi việc chính sự, xét về lễ là được nâng bậc, nhà vua phong cho mỹ tự, lại gia phong cho là Đại Việt Lạc Thị linh ứng phong công trí đức cương nghị ba vị đại vương".
Thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng đất Gia Bình thuộc bộ Vũ Ninh và để lại dấu ấn đậm nét ở ngôi đền thờ Cao Lỗ Vương (xã Cao Đức). Theo thần tích cho biết ông là tướng tài giúp An Dương Vương xây dựng quốc gia Âu Lạc, xây thành Cổ Loa, có công chế tạo "nỏ thần" đánh giặc giữ nước.
Thời chống Bắc thuộc, vùng đất này thuộc hai huyện An Bình và Nam Định. Đời Lý Trần thuộc huyện An Định lộ Bắc Giang. Thời Lê sơ, huyện An Định được đổi là Gia Định, thuộc phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc. Thời Nguyễn, vua Minh Mệnh năm thứ nhất (1820) huyện đổi tên là Gia Bình. Xưa kia, lỵ sở của huyện Gia Bình ở xã Bảo Khám. Năm 1820 được chuyển về xã Đông Bình. Năm 1888 chuyển đến xã Nhân Hữu. Năm 1841 chuyển về xã Khoái Khê. Năm 1920 chuyển về núi Nghĩa Thắng thuộc dãy Thiên Thai, xã Đông Cứu ngày nay.
Trong kháng chiến chống Pháp, để phù hợp với tình hình kháng chiến, tháng 8/1950, huyện Gia Bình và Lương Tài sáp nhập làm một lấy tên là huyện Gia Lương, thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1962, tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang hợp nhất thành một tỉnh lấy tên là tỉnh Hà Bắc, huyện Gia Lương thuộc tỉnh Hà Bắc.
Năm 1997, tỉnh Bắc Ninh được tái lập, huyện Gia Lương thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Theo Nghị định số 68/1999/NĐ-CP[2] huyện Gia Bình được tách ra từ huyện Gia Lương với 13 xã: Bình Dương, Cao Đức, Đại Bái, Đại Lai, Đông Cứu, Giang Sơn, Lãng Ngâm, Nhân Thắng, Quỳnh Phú, Song Giang, Thái Bảo, Vạn Ninh, Xuân Lai.
Theo Nghị định số 37/2002/NĐ-CP[3], thành lập thị trấn Gia Bình - thị trấn huyện lỵ huyện Gia Bình trên cơ sở 213,08 ha diện tích tự nhiên và 3.198 nhân khẩu của xã Xuân Lai; 71,92 ha diện tích tự nhiên và 1.389 nhân khẩu của xã Đại Bái; 151,39 ha diện tích tự nhiên và 3.085 nhân khẩu của xã Đông Cứu.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập thị trấn Gia Bình: xã Xuân Lai còn lại 1.084,35 ha diện tích tự nhiên và 8.251 nhân khẩu; xã Đại Bái còn lại 627,46 ha diện tích tự nhiên và 8.665 nhân khẩu; xã Đông Cứu còn lại 666,28 ha diện tích tự nhiên và 7.301 nhân khẩu; thị trấn Gia Bình có 436,39 ha diện tích tự nhiên và 7.672 nhân khẩu.
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1255/NQ-UBTVQH15[4] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2023–2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2024). Theo đó, thành lập thị trấn Nhân Thắng trên cơ sở toàn bộ xã Nhân Thắng.
Huyện Gia Bình có 2 thị trấn và 12 xã như hiện nay.
Kinh tế - xã hội
Làng nghề
Gia Bình thuộc vùng đất Kinh Bắc cũng có một số làng nghề từ lâu, với làng Đại Bái là nổi tiếng. Nhóm nghề dịch vụ chưa phát triển nhiều ngay cả những nơi như trung tâm thị trấn và ở Ngụ, Bùng là nơi phát triển nhất huyện cũng chỉ dừng lại ở việc kinh doanh các mặt hàng thiết yếu. Nông nghiệp với nhiều loại cây vụ đông và cây màu như cà rốt, dưa, hành, tỏi, chuối bãi... Huyện không có nhiều các làng nghề. Các nghề như mây tre đan Lập Ái, bột lọc Ngụ hầu như đến nay đã không còn tồn tại. Các làng còn lại cần khôi phục để tạo nét văn hóa, đặc trưng của vùng đất Gia Bình:
Làng Ngụ: nghề Bột lọc, có truyền thống hơn 700 năm nay.
Làng Đại Bái: đúc đồng (hiện nay làng nghề này đang rất phát triển. Sản phẩm là các đồ vật bằng đồng như nồi đồng, lư hương (rất nhiều), đồ thờ cúng (rất nhiều),...
Làng Xuân Lai: làng nghề mây tre trúc. Hiện những nghề thủ công tại đây phát triển rất mạnh như mây tre đan, thang xào, dát giường, găng tay, khẩu trang, đồ thủ công mỹ nghệ xuất khẩu trong và ngoài nước.
Làng Môn Quảng: Làng nghề nón lá.
Làng Yên Việt: Làng nghề trồng dưa.
Giáo dục
Trường THPT Gia Bình số 1
Trường THPT Lê Văn Thịnh
Trường THCS Lê Văn Thịnh.
Văn hóa
Lễ hội
Lễ hội Cao Lỗ Vương
Hội thập đình Lê Văn Thịnh
Lễ hội đền Vua Bà.
Công trình
Trung tâm văn hóa thể thao huyện Gia Bình (Gia Bình)[5]
Đài tưởng niệm Liệt sỹ huyện Gia Bình (Gia Bình)[6]