Giáo sư Nguyễn Khánh Toàn (Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô) với Cụm những công trình thuộc lĩnh vực sử học, trong đó có: Vài nhận xét về thời kỳ cuối nhà Lê đến nhà Nguyễn Gia Long (1954) và Vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản (1960).
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Đặng Thai Mai với các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam và văn học thế giới.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Trần Văn Giàu: Toàn bộ công trình về Lịch sử Việt Nam gồm 5 bộ, 18 tập (1956–1957).
Giáo sư Vũ Khiêu (Đặng Vũ Khiêu) với Bộ sách về Mỹ học, Đạo đức học, Văn hóa học (1973–1978–1980).
Giáo sư Cao Xuân Huy với công trình nghiên cứu Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu.
Giáo sư Hồ Tôn Trinh (Viện sĩ Danh dự Viện Hàn lâm Khoa học Hungary) với Cụm công trình gồm bốn tác phẩm về nghiên cứu văn học và phê bình văn học (1962–1971, 1980, 1986, 1992).
Giáo sư Đinh Gia Khánh với cụm công trình gồm 4 tác phẩm nghiên cứu về văn học dân gian và văn hoá dân gian Việt Nam (1972, 1989, 1993, 1995).
Khoa học y – dược
Giáo sư Hồ Đắc Di với các công trình: Sinh học và bệnh học đại cương, Quan điểm đường lối, Phương pháp luận đào tạo cán bộ y tế Việt Nam.
Giáo sư, Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Văn Hưởng với các công trình: Toa căn bản, Kháng sinh thảo mộc, Phương pháp dưỡng sinh.
Giáo sư Đặng Vũ Hỷ với hai cuốn sách chuyên khảo, 16 công trình nghiên cứu bệnh phong, bộ giáo trình Bệnh da liễu và 32 công trình nghiên cứu khác.
Phạm Ngọc Thạch với Cụm công trình 34 Công trình khoa học về phòng, chống bệnh lao ở Việt Nam và Năm nguyên tắc của ngành y tế nhân dân, xây dựng mạng lưới y tế cơ sở - y tế nông thôn.
Giáo sư Tôn Thất Tùng với công trình Phương pháp cắt gan khô Tôn Thất Tùng (1962).
Giáo sư Đỗ Xuân Hợp với công trình Giải phẫu mô tả và Nhân Trắc học người Việt Nam (1950–1971).
Giáo sư Đặng Văn Ngữ với công trình Điều tra về muối sốt rét ở Việt Nam và Chế dung dịch Pênixilin sử dụng chữa vết thương trong kháng chiến chống Pháp (1958).
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Đặng Văn Chung với Cụm công trình nghiên cứu nội khoa.
Giáo sư Trần Hữu Tước với công trình Chẩn đoán phát hiện điều trị ung thư vòm họng (1955–1965) và Phương pháp mổ mới ung thư thanh quản hạ họng (1960–1977).
Giáo sư Nguyễn Xuân Nguyên với các công trình nghiên cứu khoa học về phòng chống bệnh mắt hột và các bệnh mù lòa.
Thầy thuốc Nhân dân Hoàng Tích Mịnh với Cụm công trình nghiên cứu về vệ sinh nước sinh hoạt, nước ăn, nước thải và các quyển sách giáo khoa do ông biên soạn cũng như 38 công trình về vệ sinh thực phẩm - dinh dưỡng.
Nhóm tác giả tập thể: Bộ Tư lệnh Phòng không; Viện Kỹ thuật Quân sự với công trình Nghiên cứu chống nhiễu trong cuộc chiến tranh phá hại của không quân Mỹ ở miền Bắc năm 1968, 1970, 1972.
Nhóm tác giả tập thể: Viện Kỹ thuật Quân sự với công trình Một số vũ khí đặc biệt trong chiến tranh chống Mỹ (A12, DKB nối tầng, các loại vũ khí phá chướng ngại FR, thủy lôi APS), năm 1960 – 1972.
Nhóm tác giả: Nguyễn Trinh Tiếp, Lê Tâm và các cộng tác viên: Công trình nghiên cứu chế tạo súng SKZ.
Giáo sư Tạ Quang Bửu với Tập hợp các công trình giới thiệu khoa học kĩ thuật hiện đại (sau 1945), chỉ đạo các nhiệm vụ kĩ thuật quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Giáo sư Nguyễn Xiển với các công trình khoa học: Đặc điểm khí hậu miền Bắc Việt Nam và Tập bản đồ khí hậu miền Bắc Việt Nam (1968).
Giáo sư Lê Văn Thiêm với cụm công trình về nghiên cứu cơ bản của toán học lý thuyết và những bài toán về ứng dụng (1960–1970).
Giáo sư Hoàng Tuỵ với các công trình thuộc lĩnh vực tối ưu hóa, nổi bật là hai công trình: Giải tích tối ưu toàn cục và quy hoạch D.C và ứng dụng (những năm 1960).
Giáo sư Đào Văn Tiến với Tập hợp các công trình điều tra cơ bản về động vật học ở Việt Nam (1957–1980).
Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu (Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô) với công trình Nghiên cứu về các hạt sơ cấp (tính đối xứng, cấu tạo và sự tương tác của các hạt sơ cấp và các chuẩn hạt trong chất rắn) năm 1960–1965.
Khoa học nông nghiệp (2 giải)
Giáo sư Lương Định Của với công trình Chọn tạo giống lúa chiêm xuân và hè thu năng xuất cao (giống nông nghiệp 1, giống 813m, giống chiêm 314, giống nông nghiệp 8-3888, giống nông nghiệp 75-1) mở đầu phong trào thâm canh hạt 5 tấn lúa/ha ở miền Bắc Việt Nam năm 1955–1974.
Giáo sư Bùi Huy Đáp với công trình Tổng kết kinh nghiệm và thực nghiệm chuyển vụ lúa xuân ở miền Bắc Việt Nam nâng lên thành lý luận và phát động thành phong trào quần chúng năm 1965–1975.
Tô Ngọc Vân với tác phẩm tranh sơn mài: Bộ đội nghỉ bên chân đồi; tranh sơn dầu: Hồ Chủ tịch ở Bắc Bộ phủ, Xưởng quân giới; tranh khắc gỗ: Hồ Chủ tịch làm việc; các bộ tranh kí họa về nông dân trong cải cách ruộng đất (1953) và về bộ đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954).
Nguyễn Sáng với các tác phẩm tranh sơn dầu: Giặc đốt làng tôi, Thiếu nữ bên hoa sen và các tác phẩm tranh sơn mài: Kết nạp đảng trong chiến hào Điện Biên Phủ, Thành đồng Tổ quốc.
Nguyễn Tư Nghiêm với các tác phẩm tranh sơn mài: Con nghé, Đêm giao thừa, Nông dân đấu tranh chống thuế, Tranh Gióng, Điệu múa cổ.
Trần Văn Cẩn với các tác phẩm tranh sơn mài: Tát nước đồng chiêm, Thằng cu đất mỏ, Mùa đông sắp đến, Mưa mai trên sông Kiến và các tác phẩm tranh sơn dầu: Công nhân mỏ, Nữ dân quan miền biển.
Bùi Xuân Phái với các tác phẩm tranh sơn dầu về Hà Nội: Hà Nội kháng chiến, Vợ chồng chèo, Sân khấu chèo, Xe bò trong phố cổ, Phố cổ Hà Nội, Phố vắng và Trước giờ biểu diễn.
Nguyễn Đỗ Cung với các tác phẩm tranh sơn dầu: Chân dung Hồ Chủ tịch, Học hỏi lẫn nhau, Công nhân cơ khí, Tan ca, mời chị em đi học để thi thợ giỏi và các tác phẩm tranh bột màu: Du kích La Hai, Dân quân tập bắn.
Nguyễn Phan Chánh với các tác phẩm tranh lụa: Bữa cơm mùa thắng lợi, Sau giờ trực chiến, Trăng tơ, Chân dung tự họa, Chơi ô ăn quan và Cô gái rửa rau.
Diệp Minh Châu với tác phẩm tranh vẽ bằng máu trên lụa: Tranh Hồ Chủ tịch và Thiếu nhi Trung Nam Bắc và các bức tượng: Hương Sen, Võ Thị Sáu, Bác Hồ bên suối Lênin, Bác Hồ với thiếu nhi.
Vũ Năng An với bức ảnh: Bác Hồ tại mặt trận Đông Khê (1950).
Võ An Ninh với các tác phẩm phóng sự: Phóng sự ảnh về hoạt động của Bác Hồ (1945 – 1946); Phóng sự về thanh niên cà nhân dân Sài Gòn đấu tranh chống Mỹ (1950).
Nguyễn Bá Khoản với các bộ ảnh Đội quân Nam Tiến và Trung đoàn Thủ đô.