Thiết kế của lớp La Galissonnière hình thành dựa trên sự cạnh tranh chạy đua vũ trang giữa Pháp và Ý, đối thủ tiềm năng chủ yếu của họ tại Địa Trung Hải. Với trọng lượng choán nước vào khoảng 7.000-9.000 tấn, dàn pháo chính bao gồm chín khẩu pháo 152 mm (6,0 in)/55 calibre bố trí trên ba tháp pháo ba nòng, vỏ giáp khá tốt và tốc độ tối đa lên đến 31–32 kn (57–59 km/h), lớp La Galissonnière tương đương hay vượt trội hơn ở nhiều khía cạnh so với các thế hệ của lớp tàu tuần dương Condottieri của Hải quân Ý, nhưng chỉ ngang bằng hay kém hơn so với các tàu tuần dương hạng nhẹ của Anh hay Đức đương thời.
Sau khi một phần lực lượng Pháp bị tiêu diệt tại Mers-el-Kebir, các hải đội tuần dương 3 và 4, trong đó có Georges Leygues, được lệnh đi đến Toulon. Ngày 9 tháng 9 năm 1940, dưới quyền kiểm soát của Chính phủ Vichy, nó rời Toulon cùng các tàu chị em Gloire và Montcalm,[3] băng ngang qua Gibraltar dưới quyền kiểm soát của Anh mà không bị truy đuổi. Vì việc này, Tư lệnh lực lượng Anh tại Gibraltar, Đô đốc Sir Dudley North, đã bị cách chức.[4] Hải đội được tiếp nhiên liệu tại Casablanca và tiếp tục hướng đến Dakar, đến nơi vào ngày 14 tháng 9.
Ba chiếc tàu tuần dương rời Dakar vào ngày 18 tháng 9, dự định đi về phía Nam đến Libreville nhằm đối đầu với Lực lượng Pháp Tự do vốn đã chiếm quyền kiểm soát các lãnh thổ Châu Phi Xích đạo thuộc Pháp ngoại trừ Gabon. Vì chiếc tàu chở dầuTarn, có tàu tuần dương Primauguet hộ tống, bị các tàu chiến Anh chặn lại tại Bight of Benin và bị buộc hướng đến Casablanca, việc tiếp dầu cho các con tàu không thể tiến hành tại Libreville, và hải đội tuần dương Pháp buộc phải quay trở lại Dakar. Bị chậm lại do gặp trục trặc cơ khí, Gloire bị lực lượng Anh, trong đó có HMAS Australia, ngăn chặn và bị buộc quay trở lại Casablanca, trong khi Georges Leygues và Montcalm thoát đi hết tốc độ và đến được Dakar,[5] nơi nó giúp vào việc phòng thủ cảng này chống lại Chiến dịch Menace từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 9 năm 1940.[6]Georges Leygues đã bắn trúng Australia hai lần và lẩn tránh được các cuộc tấn công bằng ngư lôi phóng từ máy bay của Không lực Hải quân Anh.
Ngoài một chuyến đi vận chuyển đến Casablanca vào tháng 8 năm 1941, trong hai năm tiếp theo sau, Georges Leygues hầu như không hoạt động cho đến khi phe Đồng Minh đổ bộ lên Bắc Phi vào tháng 11 năm 1942 (Chiến dịch Torch) và việc Đức xâm chiếm vùng tự do của Pháp, nó cùng với các tàu chiến Pháp khác gia nhập phe Đồng Minh. Đầu năm 1943, nó bắt đầu tiến hành các cuộc tuần tra truy đuổi các tàu vượt phong tỏa, đặt căn cứ tại Dakar, và vào ngày 13 tháng 4 đã đánh chặn chiếc tàu vượt phong tỏa Đức Portland, vốn bị thủy thủ đoàn của nó tự đánh đắm.[7]Georges Leygues được gửi sang Philadelphia để đại tu từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1943. Các thiết bị phóng máy bay của nó được tháo dỡ, và được bổ sung vũ khí phòng không mới bắn nhanh tầm ngắn. Sau khi hoàn tất, nó quay trở lại Dakar tiếp nối các cuộc tuần tra.
Sau chiến tranh, nó trải qua một đợt đại tu tại Casablanca từ tháng 5 năm 1945 cho đến cuối tháng 1 năm 1946. Vào năm 1954, cùng với tàu chị em Montcalm, nó được sử dụng để bắn pháo hỗ trợ trong cuộc Chiến tranh Đông dương. Georges Leygues trong một thời gian là soái hạm của Hải đội Địa Trung Hải Pháp; nó cũng phục vụ như là soái hạm của Lực lượng Can thiệp cho các chiến dịch ngoài khơi Ai Cập trong vụ Khủng hoảng kênh đào Suez, tiến hành bắn phá Rafah vào ngày 1 tháng 11 năm 1956 và hỗ trợ cho cuộc đổ bộ lên Port-Saïd.
Georges Leygues được cho ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 5 năm 1957 và bị bán để tháo dỡ vào tháng 11 năm 1959.
Tham khảo
Chú thích
^Kindell, Don. “French Navy”. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2008.
^Kindell, Don. “Sunday, 22 October”. Naval Events, October 1939. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2008.
^Kindell, Don. “Monday, 9 September”. Naval Events, September 1940. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2008.