Danh sách Đảng phái chính trị tại Malaysia bao gồm các đảng phái chính trị hiện tại và quá khứ.
Luật pháp
Theo luật pháp hiện hành, tất cả các đảng chính trị (gọi là "Hiệp hội chính trị") phải được đăng ký theo Đạo luật Đoàn thể.
Chi phí bầu cử
Đạo luật vi phạm bầu cử (1954) quy định chi phí tối đa cho phép đối với các ứng cử viên tranh ghế quốc hội và ghế của tiểu bang trong thời gian diễn ra chiến dịch (không tính trước ngày đề cử và sau ngày bầu cử). Chi phí chiến dịch cho phép được quy định bởi Đạo luật vi phạm bầu cử (1954) là 100,000 RM (tương đương với khoảng 577 triệu vnd theo tỉ giá tháng 1/2018) cho mỗi ứng cử viên cho ghế tiểu bang và 200,000 RM (tương đương với khoảng 1,155 triệu vnd theo tỉ giá tháng 1/2018) cho mỗi ứng cử viên cho ghế liên bang. Theo hướng dẫn này, với 505 ghế tiểu bang và 222 ghế nghị viện trong cuộc tổng tuyển cử năm 2013, số tiền tối đa mà Mặt trận Dân tộc được phép chi tiêu chỉ khoảng 95 triệu RM. Do thiếu hồ sơ và quy định, các chính trị gia Malaysia thậm chí có thể không biết họ chi tiêu bao nhiêu cho các chiến dịch của họ hoặc chi tiêu quá mức chi tiêu hơn luật pháp cho phép. Một vấn đề liên quan khác là bí mật xung quanh các quỹ chính trị và việc sử dụng chúng. Mặc dù nhiều chính trị gia, bao gồm cả các thành viên của các chính phủ mới được bổ nhiệm, tự nguyện tiết lộ tài chính cá nhân của họ, việc tiết lộ đó không bắt buộc và nhiều nguồn thu vẫn còn mơ hồ.
Tiền gửi bầu cử
Khoản tiền gửi là 10,000 RM để tranh tài một ghế nghị viện, hoặc 5,000 RM để tranh tài một ghế hội nghị tiểu bang. Khoản tiền gửi được sử dụng để thanh toán cho các vi phạm luật bầu cử và được trả lại sau ngày bỏ phiếu trừ khi ứng cử viên thua và không giành được hơn 12.5% hoặc 1/8 số phiếu bầu. Ngoài ra, yêu cầu mỗi ứng cử viên cung cấp một khoản tiền gửi 5,000 RM để làm sạch các biểu ngữ và áp phích sau cuộc bầu cử.
Đóng góp chính trị
Đóng góp chính trị hợp pháp tại Malaysia. Không có giới hạn, và các Đảng không có nghĩa vụ phải tiết lộ nguồn tài trợ, làm cho sự đóng góp chính trị một chủ đề mơ hồ nhưng vẫn hoàn toàn hợp pháp trong nước. Tất cả các khoản quyên góp chính trị đều được phép đưa vào tài khoản của cá nhân và tài khoản của Đảng chính trị. Người hiến tặng ẩn danh và người nước ngoài có thể yêu cầu không tiết lộ danh tính của họ.
Các đảng chính trị được tài trợ bởi các khoản đóng góp từ:
Đảng viên và các cá nhân ủng hộ (phí thành viên/ Đảng phí/ Đăng ký/ hoặc quyên góp nhỏ từ địa phương/ nước ngoài),
các tổ chức, chia sẻ quan điểm chính trị của ứng viên (ví dụ: bằng phí liên kết công đoàn) hoặc có lợi từ hoạt động của ứng viên (ví dụ như quyên góp của công ty địa phương / nước ngoài)
người nộp thuế tương ứng với quỹ doanh thu chung (bằng các khoản trợ cấp được gọi là trợ cấp của tiểu bang, chính phủ hoặc tài trợ công).
Các Đảng đại diện trong Quốc hội/ hoặc các hội đồng lập pháp tiểu bang
Đây là danh sách các liên minh và các Đảng có đại diện tại Nghị viện Malaysia (Dewan Rakyat và Dewan Negara) và các hội đồng lập pháp tiểu bang, được sắp xếp theo năm mà các Đảng tương ứng đã được hợp pháp hóa và đăng ký với Cơ quan đăng ký hiệp hội (ROS).
A Thuật ngữ "lãnh đạo tập thể" được sử dụng để mô tả Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khi thành lập vào năm 1966.[2][3] B Đảng Hồi giáo Toàn Malaysia tham gia vào một liên minh với cựu Đảng Liên minh vào năm 1972 và sau đó gia nhập liên minh Barisan Nasiona được thành lập vào năm 1974. Đảng rút khỏi liên minh vào năm 1977[4] C Vào tháng 8/2015, 6 thành viên nghị viện của Đảng Hồi giáo Toàn Malaysia (PAS) tuyên bố tham gia Đảng Lao động Malaysia (PPM), sau này đổi tên thành Đảng Tín nhiệm Quốc gia (Amanah).[5] D Trong cuộc tổng tuyển cử Malaysia năm 2013, Đảng Xã hội chủ nghĩa Malaysia giành được một ghế của Dewan Rakyat (Sungai Siput) dưới liên minh Đảng Công lý Nhân dân.
Liên minh Barisan Nasional
Danh sách này được sắp xếp theo năm mà các Đảng tương ứng đã được hợp pháp hoá và đăng ký với Cơ quan đăng ký hiệp hội (ROS).
A UMNO, được thành lập năm 1946 đã bị hủy đăng ký năm 1988 và Thủ tướng Malaysia đã thành lập một đảng mới được gọi là Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất (Baru) ngày 16 tháng 2 năm 1988. Thuật ngữ "Baru" hoặc "Mới" đã bị xóa bỏ bởi một hiến pháp sửa đổi vào tháng Bảy cùng năm.
A Thuật ngữ "lãnh đạo tập thể" được sử dụng để mô tả Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khi thành lập vào năm 1966.[2] B Vào tháng 8/2015, 6 thành viên nghị viện của Đảng Hồi giáo Toàn Malaysia (PAS) tuyên bố tham gia Đảng Lao động Malaysia (PPM), sau này đổi tên thành Đảng Tín nhiệm Quốc gia (Amanah).[5]
A Đảng Hồi giáo Toàn Malaysia tham gia vào một liên minh với cựu Đảng Liên minh vào năm 1972 và sau đó gia nhập liên minh Barisan Nasiona được thành lập vào năm 1974. Đảng rút khỏi liên minh vào năm 1977[4] B Đảng Đoàn kết Sabah (Parti Bersatu Sabah) là một thành viên của Barisan Nasional từ khi thành lập cho đến khi rút khỏi liên minh vào năm 1990. Đảng tái gia nhập liên minh vào năm 2002.[7]
A UMNO, được thành lập năm 1946 đã bị hủy đăng ký năm 1988 và Thủ tướng Malaysia đã thành lập một đảng mới được gọi là Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất (Baru) ngày 16 tháng 2 năm 1988. Thuật ngữ "Baru" hoặc "Mới" đã bị xóa bỏ bởi một hiến pháp sửa đổi vào tháng Bảy cùng năm. B Đảng Đoàn kết Sabah (Parti Bersatu Sabah) là một thành viên của Barisan Nasional từ khi thành lập cho đến khi rút khỏi liên minh vào năm 1990. Đảng tái gia nhập liên minh vào năm 2002.[7]
A Thuật ngữ "lãnh đạo tập thể" được sử dụng để mô tả Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khi thành lập vào năm 1966.[2][3] B Đảng Hồi giáo Toàn Malaysia tham gia vào một liên minh với cựu Đảng Liên minh vào năm 1972 và sau đó gia nhập liên minh Barisan Nasiona được thành lập vào năm 1974. Đảng rút khỏi liên minh vào năm 1977[4]
Các Đảng không có đại diện trong Nghị viện và Hội đồng tiểu bang
Tham khảo
^“Dashboard PRU 14”. Pilihan Raya Umum Malaysia 14. Suruhanjaya Pilihan Raya Malaysia. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2018.
^ ab“Parti Bersatu Sabah (PBS)”. MalaysiaToday.com. ngày 5 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2008.