Sau khi bị thu hút với giới âm nhạc và sự nghiệp diễn xuất ở Thành phố New York, Minaj cuối cùng chọn rapper là nghề nghiệp chính của cô.[1] Tài năng của cô được khám phá bởi nam rapper Lil Wayne và cô đã kí hợp đồng với hãng thu âm Young Money Entertainment—một công ty con của hãng Cash Money Records với việc phân phối âm nhạc được đảm nhiệm bởi Republic Records—vào năm 2009.[2] Đĩa đơn độc tấu đầu tiên của Minaj, "Your Love", đạt vị trí thứ 14 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ và đứng đầu bảng xếp hạng Hot Rap Songs của tạp chí Billboard, một thành tựu đã làm cho Minaj trở thành nghệ sĩ nữ đứng đầu bảng xếp hạng với tư cách là nghệ sĩ độc tấu kể từ năm 2002.[3] Ba đĩa đơn tiếp theo của cô, "Check It Out", "Right Thru Me" và "Moment 4 Life", đều lọt vào top 40 trên Billboard Hot 100. Album phòng thu đầu tay của Minaj, Pink Friday, được phát hành vào tháng 11 năm 2010, đã đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ. Đĩa đơn thứ năm của album, "Super Bass", đứng ở vị trí thứ ba trên Billboard Hot 100 và vươn lên top 10 trong các bảng xếp hạng ở nhiều quốc gia.
Album phòng thu thứ hai của Minaj, Pink Friday: Roman Reloaded (2012), được xếp hạng lần đầu tiên ở vị trí cao nhất trên Billboard 200. Album cũng đồng thời lọt vào bảng xếp hạng UK Albums Chart (Liên hiệp Anh) ở vị trí thứ nhất, làm cho Minaj trở thành nữ rapper có vị trí xếp hạng cao nhất trong lịch sử của bảng xếp hạng.[4] Đĩa đơn đầu tiên của album, "Starships", xếp hạng ở vị trí thứ năm trên Billboard Hot 100 và vươn lên top 10 ở nhiều quốc gia. Một phiên bản album mở rộng của Pink Friday: Roman Reloaded được phát hành vào tháng 11 năm 2012, có thêm tiêu đề phụ là The Re-Up.[5]
Album phòng thu thứ ba của cô được phát hành vào năm 2014, có tựa là The Pinkprint, được xếp hạng lần đầu tiên ở vị trí thứ hai trên Billboard 200. Đĩa đơn thứ hai của album, "Anaconda", đứng ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và là đĩa đơn có vị trí xếp hạng cao nhất tại Mỹ của cô cho đến nay. Các đĩa đơn khác, gồm "Only" và "Truffle Butter" đã lọt vào top 20 trên Billboard Hot 100. Năm 2014, Minaj chia sẻ vị trí hát chính trong đĩa đơn "Bang Bang" cùng với Jessie J và Ariana Grande. Bài hát đã giúp Minaj đạt được vị trí đầu tiên ở Liên hiệp Anh (L. H. Anh) và vị trí thứ ba ở Mỹ.
Kể từ năm 2010, Minaj đã tích lũy hơn 92 hạng mục trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 (kể cả các hạng mục bài hát mà cô có vai trò là nghệ sĩ góp mặt), làm cho cô là người có nhiều hạng mục nhất so với các nghệ sĩ nữ khác với tất cả các thể loại nhạc.[6] Ngoài ra, cô đã kiếm về cho mình 16 đĩa đơn nằm trong top 10 trong các bảng xếp hạng trong sự nghiệp âm nhạc, là số đĩa đơn cao nhất so với các nữ rapper khác.[7]
Album
Album phòng thu
Danh sách album phòng thu, với vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng, doanh số và chứng nhận
"—" biểu thị đĩa đơn không được phát hành hoặc không được xếp hạng tại quốc gia đó.
Chú giải
^"Massive Attack" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng nó lại đạt được vị trí thứ 22 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Pound the Alarm" không lọt vào bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưngn nó lại đạt vị trí thứ 18 trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[51]
^"The Boys" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng nó lại đạt được vị trí thứ 14 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Freedom" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng nó lại đứng ở vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Trini Dem Girls" không có mặt trên bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng nó lại đứng ở vị trí đầu tiên trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[51]
^"No Frauds" không có mặt trong bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng nó lại đạt vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[62]
^"MotorSport" không có mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng nó lại đứng ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[64]
^"MotorSport" không có mặt trên bảng xếp hạng Sverigetopplistan Top 100 Singles, nhưng nó lại đạt được vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Sverigetopplistan Heatseekers.[65]
^"Barbie Tingz" không có mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng nó lại đạt được vị trí cao nhất trong bảng xếp hạng NZ Heatseeker Singles Chart.[69]
^"Chun-Li" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng nó lại đứng ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng NZ Heatseeker Singles Chart.[69]
^"Chun-Li" không lọt vào bảng xếp hạng Swedish Singellista Chart, nhưng lại xếp hạng thứ chín trên bảng xếp hạng Swedish Heatseeker Chart.[70]
^"I Ain't Thru" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng nó lại đứng ở vị trí thứ 19 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Raining Men" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng nó lại đạt vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Fireball" không có mặt trên bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng lại đạt được vị trí thứ 21 trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[51]
^"Somebody Else" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đạt được vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Twerk It" không lọt vào bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng nó lại đứng ở vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[51]
^"Get Like Me" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng nó lại đứng ở vị trí thứ tám trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"I Wanna Be with You" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Clappers" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đứng ở vị trí thứ tám trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Lookin Ass" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đứng ở vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Back Together" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đạt được vị trí thứ 25 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"No Broken Hearts" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đạt vị trí thứ chín trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Don't Hurt Me" không có mặt trên bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng lại đạt vị trí thứ chín trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[51]
^"Do You Mind" không có mặt trên bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng lại đạt vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng NZ Heatseekers Singles Chart.[116]
^"Light My Body Up" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đạt vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Kissing Strangers" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đạt vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
^"Roman in Moscow" không lọt vào bảng xếp hạng Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng lại đạt được vị trí thứ tám trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[51]
^"All Things Go" không có mặt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng lại đạt vị trí thứ 15 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[45]
"No Frauds": “ARIA CHART WATCH #412”. auspOp. 18 tháng 3 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2017.
"MotorSport": “ARIA Chart Watch #445”. auspOp. 4 tháng 11 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập 4 tháng 11 năm 2017.
"Chun-Li": “ARIA Chart Watch #469”. auspOp. 21 tháng 4 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2020. Truy cập 21 tháng 4 năm 2018.
"The Light Is Coming": “ARIA Chart Watch #479”. auspOp. 30 tháng 6 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2018.
"Do You Mind": “ARIA CHART WATCH #390”. auspOp. 15 tháng 10 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2016.
"Kissing Strangers": “ARIA CHART WATCH #417”. auspOp. 22 tháng 4 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2017.
"You Already Know": “ARIA Chart Watch #436”. auspOp. ngày 2 tháng 9 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2017.
^Vị trí xếp hạng cao nhất của các đĩa đơn của Minaj với vai trò là ca sĩ góp mặt ở Canada