Dòng họ Đặng ở Lương Xá là một dòng họ có lịch sử lâu đời ở Việt Nam, định cư ở thôn Lương Xá thuộc tỉnh Hà Tây từ khoảng thế kỷ 15.
Lịch sử
Dòng họ Đặng ở Lương Xá là một chi của họ Đặng định cư lâu đời ở thôn Lương Xá huyện Chương Đức, về sau thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Người được xem là thủy tổ của chi này là Đặng Huấn, cha của Đặng Thị Ngọc Dao. Về sau, Ngọc Dao được gả làm thứ phi của chúa Trịnh Tùng, lại sinh ra Trịnh Tráng nối ngôi chúa Trịnh. Bản thân Đặng Huấn và con cháu của ông đã từng trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh lâu dài giữa chúa Trịnh và nhà Mạc, góp công vào việc lập nên và củng cố chính quyền Lê Trịnh lúc bấy giờ. Trong những năm Đức Long thơi vua Lê Thần Tông, Thanh Đô vương Trịnh Tráng nhớ đến công lao của các công thần bèn cho phối hưởng 4 người vào cung miếu của 4 trấn, trong đó có Đặng Huấn.[1]
Bên cạnh công huân là yếu tố thân thích từ ban đầu, gia tộc họ Đặng liên tục nắm giữa quân đội nhà Trịnh, nhiều thế hệ nhậm chức quan lớn trong triều đình Lê Trịnh, có người được phong chức tước.[2] Trong cuốn Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú có ghi lại một câu tục ngữ được truyền tụng trong dân gian cuối thời Lê trung hưng là "Đánh giặc họ Hàm, làm quan họ Đặng". Trong đó "Đánh giặc họ Hàm" là nói về dòng dõi danh tướng Đinh Văn Tả ở Hàm Giang, Cẩm Giàng, Hải Dương, có nhiều tướng nổi tiếng về chỉ huy thủy quân và đánh thủy chiến. Còn "làm quan họ Đặng" chính là nói về dòng dõi Đặng Huấn, với các con cháu đều được phong công, phong hầu, nhiều người làm trấn thủ các tỉnh lớn, có người làm đến Bồi tụng, nhiều đời thông gia với chúa Trịnh, quyền uy nhất mực một thời.[1]
Họ Đặng Lương Xá tiếp tục phát triển cho đến giữa thế kỷ 18 thì bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái của chính quyền Lê Trịnh khi phong trào Tây Sơn quật khởi, lần lượt đánh đổ hai tập đoàn cát cứ ở hai miền là chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Ngay trong thời kỳ này, dòng họ Đặng xuất hiện một danh tướng là Đặng Tiến Đông lập nhiều công lớn, được hoàng đế nhà Tây Sơn là Quang Trung trọng dụng, truy tặng cho tổ tiên. Dòng họ Đặng của được phục hồi từ đây. Sau khi nhà Tây Sơn suy thoái, Nguyễn Ánh bắt đầu nổi dậy giành chính quyền, dòng họ Đặng lại xuất hiện Đặng Trần Thường theo phò tá Nguyễn Ánh, làm đến chức Thượng thư rồi Phó Tổng trấn Bắc thành.[3]
Nguồn gốc
Mặc dù có nhiều bộ gia phả về dòng họ Đặng ở Lương Xá được ghi chép lại bởi con cháu trong họ, nhưng lại có sự khác nhau khá lớn về nguồn gốc tổ tiên của dòng họ này. Theo Đặng gia phả ký tục biên do Đặng Đình Quỳnh viết vào năm 1763[4] và Đặng gia phổ hệ toàn chính thực lục do danh tướng Đặng Tiến Đông biên soạn vào khoảng những năm 1790[5] dưới thời Tây Sơn thì chi họ Đặng này vốn gốc họ Trần, là hậu duệ của các vua nhà Trần. Theo hai bộ gia phả, chi họ Đặng này tương truyền là hậu duệ của Trần Hưng Đạo, tổ tiên là Trần Văn Huy (tên thật là Trần Nguyên Trừng, hiệu Đặng Hiên) từng đỗ tiến sĩ thời Tiền Lê năm 1442. Con cháu ông đã lấy chữ tên hiệu của ông làm họ, đổi từ họ Trần sang họ Đặng.[6] Trần Văn Huy có 3 người con trai lần lượt là Thượng thư Trần Cận, Trần Nguyên Trạch (sau đổi thành Đặng Công Du) – tổ tiên của An Xuyên bá Đặng Công Toản dưới triều Mạc, và Trần Lâm. Theo Đặng Tiến Đông thì dòng họ này là hậu duệ của người con trai út Trần Lâm với Đặng Huấn là cháu đời thứ 5.[7]
Tuy nhiên theo Đặng tộc Đại tông phả do Yến Quận công Đặng Tiến Thự viết năm 1683 dưới triều Lê, được tục biên năm 1686 và 1745 bởi Ứng Quận công Đặng Đình Tướng và Thái Nhạc Quận công Đặng Sĩ Hàn,[8] thì dòng họ này vốn là hậu duệ của Đặng Dung, một tướng lĩnh của nhà Hậu Trần. Cũng theo Đặng tộc Đại tông phả thì Đặng Huấn là người cùng dòng dõi với một số nhân vật nổi tiếng như thượng thư Đặng Minh Khiêm của nhà Lê sơ và thám hoa Đặng Thì Thố dưới triều nhà Mạc.[9][10]
Bên cạnh gia phả của Đặng Đình Quỳnh và Đặng Tiến Đông thì còn một thuyết khác về nguồn gốc họ Trần của tộc này. Năm 1511, cháu nội của Thượng thư Trần Cận là Trần Tuân khởi binh chống nhà Lê nhưng thất bại, con cháu họ Trần đã di tản khắp nơi trong đó là làng Lương Xá và đổi sang họ Đặng để tránh họa. Cũng có thuyết cho rằng Đặng Huấn là chính là hậu duệ trực hệ của Đặng Tuân. Tuy nhiên, thuyết này không chị bị con cháu họ Đặng hiện nay đang phản đối kịch liệt mà còn mâu thuẫn với một số tài liệu khác. Theo cuốn Văn hóa Huế trong gia đình và họ tộc thế kỷ XVII-XIX, Đặng Huấn "không liên quan gì đến" phả hệ của Đặng Tuân.[11] Còn Nguyễn Văn Thanh và Đinh Công Vĩ đã phản bác quan điểm Đặng Huấn là cháu nhiều đời của Đặng Tuân.[12]
Thủy tổ
Thủy tổ của dòng họ Đặng Lương Xá này là danh tướng Đặng Huấn, một đại thần thời Lê Trung hưng. Đặng Huấn vốn là cháu rể của Nam đạo tướng Thái tể Phụng quốc công Lê Bá Ly, đại thần của triều Mạc. Bản thân ông cũng từng được triều Mạc phong tước Bá. Năm 1549, Mạc Tuyên Tông nghe lời xúi của cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao mà muốn bắt Bá Ly. Bá Ly liền đem gia đình và thuộc tướng vào Thanh Hóa hàng vua Lê.[13] Đặng Huấn được Trịnh Kiểm để ý, phong làm Khổng Lý hầu, sau thăng lên tước Nghĩa Quận công. Năm 1579, Đặng Huấn đem quân chặn đánh quân Mạc ở Thái Đường, huyện Vĩnh Lộc. Quân Mạc bị phá tan, hơn nghìn người bị chém, Mạc Kính Điển thua lớn phải rút quân, Đặng Huấn được luận công phong làm Tả đô đốc, thự phủ sự ở Tây quân, chức Thái phó. Ông qua đời vào năm 1583, được truy tặng chức Nam quân đô đốc, Chưởng phủ sự thái úy, thụy là Cương Chính.
Dòng trưởng
Dòng trưởng của dòng họ được truyền thừa bởi các "tông tử", tức con trai nối dõi, thường là con đích do chính thất sinh ra mà không nhất thiết là con trưởng. Nghĩa Quốc công Đặng Huấn có 2 con trai là Hà Quận công Đặng Tiến Vinh và Thụy Khê hầu Đặng Thế Kỵ. Đặng Thế Kỵ không có con trai, Đặng Tiến Vinh lại vừa là con trai trưởng vừa là con đích do phu nhân họ Lê sinh ra, vì vậy mà trở thành người nối dõi. Chánh thất của Đặng Tiến Vinh là phu nhân họ Đỗ sinh được 4 người con trai nhưng con trai cả là Triều Lương hầu Đặng Sức mất sớm, con thứ là Thái tể Doanh Quận công Đặng Thế Tài trở thành người nối dõi.
Doanh Quận công có tất cả 8 người con trai trong đó con trai trưởng là Tần Quận công Đặng Tiến Quyền do phu nhân họ Nguyễn sinh ra.[14] Phu nhân họ Nguyễn là cháu gái của Thái tể Lỵ Quốc công, con gái của Giao Quận công, vốn là chính thất nhưng sau khi Đặng Thế Tài cưới quận chúa Ngọc Thác, con gái của chúa Trịnh Tráng, thì Quận chúa trở thành chính thất. Con trai do quận chúa sinh ra là Yên Quận công Đặng Tiến Thự vốn là con trai thứ hai cũng trở thành đích trưởng tử thừa kế dòng dõi.[15] Tiến Thự có tất cả 14 người con trai,[16] trong đó người con cả vốn là Lai Quận công Đặng Tiến Sở nhưng cũng không được thừa kế dòng dõi khi Tiến Thự cưới quận chúa Ngọc Thuyên, con gái của chúa Trịnh Tạc, và sinh ra Gia Quận công Đặng Tiến Lân.
9 đời dòng trưởng của chi họ Đặng ở Lương Xá và một nhân vật tham gia biên soạn gia phả gia tộc (được tô màu ):[17]
Đặng Tiến Vinh: được phong tước Hà Quận công,[22] từng làm đến chức Đô đốc, Thái bảo, được triều Tây Sơn truy phong làm Thượng đặng Đại vương.[23]
Đặng Thị Ngọc Phúc (1588–?), được chúa Trịnh Tráng nhận làm con nuôi và phong làm Quận chúa, ban cho họ Trịnh, sau gà cho Tả Trung quân doanh Phó đô tướng Thiếu uý Tư không Nghiêm Quận công.[24]
Đặng Thị Xuân Dung (?–1612), được tôn phong là Cao Quyền Công chúa, đến nay vẫn còn miếu thờ (tục gọi là điện vua bà) ở một số xã thuộc tổng Lương Xá.[25]
Đặng Thế Tài: được phong tước Doanh Quận công, làm đến chức Phó tướng, Thái bảo, được tặng hàm Đại tư không.[26]
Đặng Tiến Thự, được phong tước Yên Quận công, làm đến chức Thái phó Thống suất các xứ Nghệ An, nhiều lần được phong Đại tư mã, gia phong Đại vương. Ông được chúa Trịnh yêu mến, ban họ Trịnh, lấy tên Trịnh Liễu.[22]
Đặng Tiến Lân: con trai của Thái trưởng Quận chúa, cháu ngoại của chúa Trịnh Tạc, được phong tước Gia quận công, làm đến chức Trấn thủ xứ Sơn Nam, Phụ quốc công thần Trung Dực quân doanh, Tả Đô đốc Nam quân, Đại tư mã. Về sau được ban họ Trịnh là Trịnh Lân,[27] tặng chức Đại tư đồ, ban thụy Mẫn Đạt phủ quân.
Đặng Đình Gián: được phong tước Huân Quận công, từng làm đến chức Trấn thủ Sơn Nam, Sơn Tây, kiêm đeo ấn 3 doanh là Trung Dực, Trung Tiệp và Trung Kiên.[30]
Đặng Đình Đề: được phong tước Nhuận Phái hầu, từng làm đến Tổng binh Đồng tri.[31]
Đặng Tiến Miên (hay Đình Miên)[33]: được phong tước Đô chỉ huy sứ, quyền Trấn thủ Nghệ An kiêm Trấn thủ châu Bố Chính, Trấn thủ các xứ Hải Dương, An Quảng, Sơn Tây, làm đến chức Đô kiểm điểm của Điện tiền Kiểm điểm ty.[34]
Đặng Tiến Đông (hay Đình Đông, sau đổi tên thành Giản): được phong tước Đông Lĩnh hầu, làm đến chức Vệ quốc Thượng tướng quân, Đô đốc Trấn thủ Thanh Hoa kiêm Nghệ An (sau là Nghĩa An) dưới thời Lê Trịnh, sau đầu quân cho Tây Sơn. Nhà sử học Phan Huy Lê nhận định Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long lập nhiều đại công cho nhà Tây Sơn nhưng cũng có nhiều ý kiến trái chiều khác.[35]
Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Thuyên, vợ của Đặng Tiến Thự, con gái trưởng của Tây Đô vương Trịnh Tạc, chị cùng mẹ của Khang vương Trịnh Căn, được phong làm Ôn Cung Đoan Tĩnh Thái trưởng Quận thượng chúa.[40] Con trai bà là Đặng Tiến Lân, về sau được ban họ Trịnh.[27]
Ngoài ra, trong Đặng gia phả hệ do Ngô Thế Long dịch còn ghi nhận quận chúa Trịnh Thị Ngọc Dung, con gái út của Tấn Quang vương Trịnh Bính là vợ của Tự Lộc hầu Đặng Tiến Tự.[49] Tuy nhiên cả Trịnh gia chính phả và nghiên cứu của Phạm Đình Hải đều chép con gái kế út của Tấn Quang Vương là Trịnh Thị Ngọc Dung kết hôn với Hậu Thọ hầu Trịnh Quyền, còn con gái út là Trịnh Thị Ngọc Nghiên/Nhiêu.[46][29]
Phả hệ
Dưới đây là phả hệ (không đầy đủ) của 9 đời tổ tiên dòng họ Đặng ở Lương Xá bắt đầu từ Nghĩa Quốc công Đặng Huấn và kết thúc ở Thường Hiến hầu Đặng Trần Thường, chỉ nhắc đến những nhân vật có tước vị.
^Đặng gia phả hệ chép là Trịnh Thị Phương Nghiên.[45]
^Trong nghiên cứu của Phạm Đình Hải (2012, tr. 97), con gái thứ 4 của Tấn Quang vương là "Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Phát, kết duyên cùng quan Thái bảo Huân Quận công Đặng Đình Đống". Còn Trịnh Gia Chính Phả lại chép con gái thứ 4 của Tấn Quang vương là "Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Anh lấy quan Thái bảo Huân quận công Đặng Đình Gián".
^Trong nghiên cứu của Phạm Đình Hải (2012, tr. 97), con gái thứ 11 của Tấn Quang vương là "Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Hoàn, kết duyên cùng Nhuận Phái hầu tên là Đặng Đình Khôi".
^Trịnh gia chính phả chép con gái thứ 12 của Tấn Quang vương là "Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Bảng lấy quan Phủ sự Đô chỉ huy sứ Trí sĩ khai phục Hiển trung hầu Đặng Đình Quỳnh".[46]