Cái Chết Đen là tên gọi của 1 đại dịch xảy ra ở châu Á và châu Âu trong thế kỷ XIV, mà đỉnh điểm là ở châu Âu trong 1346-1351, với số lượng người chết ở châu Âu và châu Á khoảng 75 - 200 triệu người.[1][2][3]Bệnh dịchCái Chết Đen được coi là một trong những đại dịch chết chóc nhất trong lịch sử nhân loại, ước tính nạn dịch này đã giết chết 30% - 60% dân số của châu Âu (tương đương 25 - 50 triệu người) và giảm dân số toàn cầu từ khoảng 450 triệu người xuống còn 350 - 375 triệu người vào năm 1400.
Quan điểm truyền thống cho rằng nguyên nhân của đại dịch này là sự bùng phát của bệnh dịch hạch gây ra bởi vi khuẩnYersinia pestis tuy nhiên cho đến thời gian gần đây đã có những ý kiến nghi ngờ quan điểm này. Địa điểm bùng phát của Cái Chết Đen thường được cho là ở Trung Á sau đó căn bệnh này nhiều khả năng thông qua loài chuột trên các tàu buôn mà lan đến bán đảo Krym vào năm 1346 rồi xâm nhập vào vùng Địa Trung Hải và châu Âu. Sự tàn phá khủng khiếp của Cái Chết Đen đã dẫn đến nhiều thay đổi lớn trong xã hội châu Âu như việc ra đời của nhiều tôn giáo mới hay sự chuyển đổi về cơ bản của kinh tế và xã hội châu Âu, tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc tới tiến trình lịch sửcủa châu lục này.
Ước tính châu Âu đã phải mất tới 150 năm để phục hồi dân số như trước thời gian đại dịch, sau này dịch hạch còn nhiều lần bùng phát trở lại tại đây và nó chỉ biến mất vào thế kỷ XIX.
Tổng cộng đã có khoảng 75 triệu người chết vì đại dịch,[12] trong đó khoảng 25 - 50 triệu là dân số châu Âu.[13][14] Như vậy Cái Chết Đen là thủ phạm gây ra cái chết của khoảng 30 - 60% dân số châu lục này.[15][16][17] Rất có thể đại dịch này đã làm dân số thế giới tụt từ khoảng 450 triệu xuống còn 350 - 375 triệu người vào năm 1400.[18]
Cái Chết Đen vào thế kỷ XIV đã làm thay đổi về cơ bản cấu trúc xã hội châu Âu, một số giả thuyết cho rằng nó chính là một cú đấm mạnh vào uy tín của Nhà thờ Công giáo, đồng thời gây ra làn sóng khủng bố các nhóm dân thiểu số ở châu Âu như người Do Thái, người nước ngoài, người ăn xin và người bị bệnh phong. Nỗi lo sợ trước căn bệnh chết người có thể đến bất cứ lúc nào đã dẫn tới sự hình thành của trào lưu "sống gấp" trong những người sống sót mà Giovanni Boccaccio đã miêu tả rất thành công với tác phẩm Mười ngày (1353).[23]
Lịch sử lây lan
Dịch hạch, căn bệnh được cho là do vi khuẩn Yersinia pestis gây ra, là một dịch bệnh động vật (còn tồn tại cho đến ngày nay) phổ biến cục bộ trong bộ Gặm nhấm sống trên mặt đất, đặc biệt là trong loài macmot châu Mỹ[9] ở Trung Á, tuy vậy người ta vẫn chưa xác định được rõ ràng địa điểm bùng phát của nạn dịch. Mặc dù thuyết phổ biến đặt địa điểm phát dịch ở vùng thảo nguyên Trung Á nhưng một số học giả lại cho rằng nó bắt nguồn từ miền BắcẤn Độ và một số khác, ví dụ nhà sử học Michael W. Dols, lại dựa vào bằng chứng lịch sử liên quan đến đại dịch đã khẳng định rằng Cái Chết Đen bắt nguồn từ châu Phi, sau đó mới lan sang Trung Á và gây ra dịch trong quần thể gặm nhấm.[24]
Dù thế nào thì chính từ Trung Á, dịch hạch đã được truyền sang phía Đông và phía Tây thông qua các giao dịch trên con đường tơ lụa và các chiến dịch quân sự của quân độiMông Cổ. Ghi chép đầu tiên về sự xuất hiện của căn bệnh này ở châu Âu là vào năm 1347 tại thành phố Caffa trên bán đảo Krym. Trong cuộc vây hãm kéo dài tại đây, quân đội Mông Cổ do Jani Beg chỉ huy đã mắc dịch hạch và họ quyết định dùng máy bắn đá ném các xác chết nhiễm bệnh vào thành phố để gây bệnh cho dân trong thành. Các nhà buôn Genova ở đây sau khi thoát ra đã mang theo luôn căn bệnh về đảo Sicilia và khu vực Nam Âu, nơi dịch hạch bắt đầu thực sự thành đại dịch[25].
Tạm gác một bên độ chính xác của giả thiết này thì cũng phải thừa nhận rằng các điều kiện có sẵn như chiến tranh, nạn đói và thời tiết đã khiến đại dịch dịch hạch càng trở nên khủng khiếp. Tại Trung Quốc, cuộc tấn công nhà Tống của quân đội Mông Cổ đã làm gián đoạn nền nông nghiệp và thương nghiệp ở khu vực này, dẫn tới nạn đói lan rộng cùng với dịch bệnh đã làm dân số giảm từ khoảng 120 triệu xuống còn chừng 60 triệu người.[26] Ước tính đã cướp đi mạng sống của ít nhất 1/3 dân số Trung Quốc.[27]
Tại châu Âu, Thời kỳ ấm Trung cổ kết thúc vào khoảng cuối thế kỷ XIII đã kéo theo 1 giai đoạn lạnh giá được coi là "giai đoạn tiểu Băng hà"[28] với những mùa đông kéo dài ảnh hưởng tới mùa màng. Đây là nguyên nhân chính dẫn tới Nạn đói lớn 1315-1317 ở Tây Bắc Âu, một lý do khác được coi là tác nhân của nạn đói này là sự bùng nổ dân số trong thế kỷ XIII, dân số tăng nhanh khiến cho vào đầu thế kỷ XIV nền nông nghiệp ở đây đã không còn đáp ứng được đủ nhu cầu lương thực của dân số.[29] Khu vực chịu ảnh hưởng lớn nhất của sự thiếu hụt lương thực là vùng Bắc Âu, nơi đất đai kém màu mỡ hơn nhiều vùng bồn địa Địa Trung Hải.[29] Hầu như tất cả các loại lương thực chính đều không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân, kéo theo đó là tình trạng suy dinh dưỡng và giảm sức đề kháng, điều kiện lý tưởng để bệnh dịch lây lan. Nạn đói còn gây ra sự thiếu hụt về nguồn lực lao động khiến kinh tế các nước châu Âu lại càng suy giảm, cộng thêm vào đó là việc lãnh đạo phong kiến châu Âu như Edward III của Anh (khoảng 1327–1377) và Philippe VI của Pháp (khoảng 1328–1350), do sợ hãi rằng nguồn thu nhập của họ sẽ bị sút giảm, đã tăng mức tiền phạt và tiền thuê đất đối với tầng lớp thuê mướn.[29] Hậu quả tất yếu là mức sống của người dân châu Âu ngày càng sút giảm trong khi các vấn đề về sức khỏe ngày càng gia tăng.
Mùa thu năm 1314, mưa lớn liên tục khiến mùa đông trong vài năm liền ở châu Âu trở nên lạnh lẽo và ẩm ướt. Nền nông nghiệp vốn đã yếu kém ở đây nay lại càng suy sụp, nạn đói xảy ra và kéo dài tới 7 năm đã giết chết chừng 10% dân số châu Âu, đây được coi là nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử châu lục này.[29] Nghiên cứu thu được từ việc xác định tuổi bằng vòng cây đã cho thấy một giai đoạn đình trệ của việc xây dựng cũng như thời tiết xấu ở thời điểm này.[30]
Trong hoàn cảnh châu Âu suy sụp nặng nề cả về kinh tế và xã hội ấy, 1 đợt dịch thương hàn đã xảy ra như điềm báo trước cho đại dịch sắp tới, hàng nghìn người đã chết vì thương hàn tại các khu đô thị đông đúc, đặc biệt là ở Ypres. Năm 1318 tới lượt 1 đợt dịch không rõ nguồn gốc bùng nổ, đôi khi được cho là bệnh than, đã tấn công các đàn gia súc châu Âu như cừu, bò, khiến cho sản lượng lương thực càng sụt giảm.
Hậu quả
Con số người thiệt mạng do đại dịch Cái Chết Đen thay đổi liên tục theo kết quả các cuộc nghiên cứu. Ước tính có chừng 75 - 200 triệu người là nạn nhân của đại dịch này trong thế kỷ XIV.[31][32][33] Theo chuyên gia về lịch sử Trung Cổ Philip Daileader thì kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy chừng 45 - 50% dân số châu Âu chết trong vòng chỉ 4 năm, các quốc gia ở khu vực Địa Trung Hải như miền Nam nước Pháp, Tây Ban Nha, tỷ lệ dân số tử vong có lẽ lên tới 75 - 80% trong khi ở các nước phía Bắc như Đức hay Anh, con số này dừng lại ở chừng 20%.[34] Tại khu vực Trung Đông gồm Iraq, Iran và Syria, số người chết trong Giai đoạn trung kỳ Hồi giáo là vào khoảng 1/3 dân số.[35] Ước chừng 40% dân số Ai Cập đã chết trong lần đại dịch này.[36]
Tại rất nhiều thành phố đông dân, tỷ lệ thiệt mạng đã vượt quá 50% dân số. Khoảng một nửa dân số Paris, tức 100.000 người, đã thiệt mạng vì Cái Chết Đen, đại dịch cũng khiến dân số thành phố Firenze ở Ý giảm từ chừng 120.000 người xuống còn 50.000 người vào năm 1338, ít nhất 60% dân số các thành phố Hamburg và Bremen đã thiệt mạng.[37] So với khu vực thành phố thì người dân sống ở những vùng hẻo lánh lại chịu thiệt hại ít hơn, các tu viện và giới tăng lữ lại chịu thiệt hại đặc biệt nặng nề vì họ thường là người đứng ra chăm sóc các bệnh nhân của Cái Chết Đen.[38] Đứng trước thảm họa này, chính phủ các nước châu Âu đã không đưa ra nổi 1 biện pháp đối phó nào vì họ không thể hiểu nổi nguyên nhân hoặc tìm ra cách thức lây lan của đại dịch.
Năm 1348, Cái Chết Đen lây lan nhanh tới mức giới cầm quyền và các bác sĩ không còn đủ thời gian để tìm hiểu bản chất của đại dịch. Họ thậm chí đã quay sang giả thiết rằng đại dịch này do các thế lực siêu nhiên, động đất hoặc việc người Do Thái đầu độc nguồn nước.[29] Kết quả là cộng đồng người Do Thái ở châu Âu đã phải hứng chịu nhiều cuộc tấn công,[39] ví dụ tháng 8/1349 cộng đồng người Do Thái ở Mainz và Köln đã bị tiêu diệt, tháng 2 cùng năm đó, những kẻ theo chủ nghĩa Vô Thần đã giết 2.000 người Do Thái ở Strasbourg,[39] tổng cộng cho tới năm 1351 đã có 60 cộng đồng lớn và 150 cộng đồng nhỏ của người Do Thái bị phá hủy.[40]
Tình trạng kinh tế và xã hội của châu Âu tan hoang trong đại dịch lại còn chịu ảnh hưởng từ chính sách cấm vận và thù địch lẫn nhau của các vương triều châu lục. Ví dụ người Anh không thể mua hạt giống từ Pháp do cấm vận, và nếu có mua được thì các con tàu buôn cũng thường bị cướp biển tấn công hoặc bị trộm cắp để đưa ra thị trườngchợ đen. Năm 1337, ngay trước khi Cái Chết Đen bùng nổ, Anh và Pháp đã lao vào cuộc chiến sau này được biết đến với cái tên Chiến tranh Trăm Năm. Tất cả đã khiến châu Âu vào giữa thế kỷ XIV thực sự rơi vào thảm kịch cả về kinh tế và xã hội.
^Knox, Skip. “The Black Death”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2009.
^J. Kelly, The Great Mortality, An Intimate History of the Black Death, the Most Devastating Plague of All Time, (New York, NY: Harper Collins, 2005), p. 295.
^S. Barry and N. Gualde, "The Biggest Epidemics of History: (La plus grande épidémie de l'histoire)" L'Histoire n° 310, (2006), pp. 45–6, say "between one-third and two-thirds"; R. Gottfried, "Black Death" in Dictionary of the Middle Ages, vol. 2, (1983). pp. 257–67, says "between 25 and 45 percent".
^“The Black Death”. History.boisestate.edu. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2008.
^M. W. Dols, "The Second Plague Pandemic and its Recurrences in the Middle East: 1347–1894" Journal of the Economic Social History of the Orient vol. 22, no. 2 (tháng 5 năm 1979), pp. 170–1.