Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm

Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm.
Bìa tập 1 light novel bản tiếng Việt với Hachiman và Yukino
やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。
(Yahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru.)
Thể loạiHài lãng mạn, slice of life, chính kịch[1]
Light novel
Tác giảWatari Wataru
Minh họaPonkan⑧
Nhà xuất bảnShogakukan
Nhà xuất bản tiếng ViệtThaihabooks - Hikari Light Novel
Nhà xuất bản khác
Đối tượngNam giới
Ấn hiệuGagaga Bunko
Đăng tải18 tháng 3, 201119 tháng 11, 2019
Số tập14 + 4 tập ngoại truyện (danh sách tập)
Manga
Yahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. -Monologue-
Tác giảKazuki Rechi
Nhà xuất bảnSquare Enix
Đối tượngSeinen
Tạp chíBig Gangan
Đăng tải25 tháng 9, 201225 tháng 4, 2023
Số tập22 (danh sách tập)
Manga
Yahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. @comic
Tác giảIo Naomichi
Nhà xuất bảnShogakukan
Nhà xuất bản tiếng ViệtThaihabooks
Nhà xuất bản khác
Đối tượngSeinen
Tạp chíMonthly Sunday Gene-X
Đăng tải19 tháng 12, 201217 tháng 2, 2023
Số tập22 (danh sách tập)
Manga
Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. Manga Anthology
Tác giảNhiều tác giả
Nhà xuất bảnIchijinsha
Đối tượngSeinen
Ấn hiệuDNA Media Comics
Đăng tải25 tháng 5, 201328 tháng 1, 2016
Số tập4 (danh sách tập)
Manga
Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. GX Comic Anthology
Tác giảNhiều tác giả
Nhà xuất bảnShogakukan
Đối tượngSeinen
Ấn hiệuSunday GX Comics
Đăng tải17 tháng 7, 2020
Số tập1
Anime truyền hình
Yahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru.
Đạo diễnYoshimura Ai
Kịch bảnSuga Shōtarō
Âm nhạcmonaca
Hãng phimBrain's Base
Cấp phép
Animatsu Entertainment
Kênh gốcTBS, MBS, CBC, BS-TBS
Phát sóng 5 tháng 4, 2013 28 tháng 6, 2013
Số tập13 + OVA (danh sách tập)
Anime truyền hình
Yahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. Zoku (mùa 2)
Đạo diễnOikawa Kei
Kịch bảnSuga Shōtarō
Âm nhạcmonaca
Hãng phimFeel
Cấp phép
Madman Entertainment
Sentai Filmworks
Medialink
Animatsu Entertainment
Kênh gốcTBS, MBS, CBC, TUT, BS-TBS
Phát sóng 3 tháng 4, 2015 26 tháng 6, 2015
Số tập13 + OVA (danh sách tập)
Anime truyền hình
Yahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. Kan (mùa 3)
Đạo diễnOikawa Kei
Kịch bảnŌchi Keiichirō
Âm nhạc
  • Ishihama Kakeru (Monaca)
  • Takahashi Kuniyuki (Monaca)
Hãng phimFeel
Cấp phépSentai Filmworks
Medialink
Kênh gốcJNN (TBS, MBS, CBC, BS-TBS)
Phát sóng 9 tháng 7, 2020 24 tháng 9, 2020
Số tập12 (danh sách tập)
Trò chơi điện tử
Yahari Game demo Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru.
Phát triển5pb.
Phát hành5pb.
Thể loạiVisual novel
Hệ máyPlayStation Vita, PlayStation 4
Ngày phát hànhPlayStation Vita
  • JP: 19 tháng 9, 2013
PlayStation 4
  • JP: 26 tháng 10, 2017
Trò chơi điện tử
Yahari Game demo Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru. Zoku
Phát triển5pb.
Phát hành5pb.
Thể loạiVisual novel
Hệ máyPlayStation Vita, PlayStation 4
Ngày phát hànhPlayStation Vita
  • JP: 27 tháng 10, 2016
PlayStation 4
  • JP: 26 tháng 10, 2017
icon Cổng thông tin Anime và manga

Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm.,còn được biết đến với tên gốc là Yahari Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru.[2] và gọi tắt là OreGairu (俺ガイル?) hay Hamachi (はまち?)[3] là loạt light novel do Watari Wataru ( (わたり) (わたる)?) sáng tác và Ponkan⑧ minh hoạ.[4] Được Shogakukan xuất bản dưới ấn hiệu Gagaga Bunko kể từ ngày 18 tháng 3 năm 2011 cho đến ngày 19 tháng 11 năm 2019, khi bộ truyện chính thức khép lại ở tập thứ 14. Bộ truyện được Thaihabooks phát hành tại Việt Nam dưới ấn hiệu Hikari Light Novel.

Bộ truyện có hai bản manga chuyển thể, một phần manga spin-off cùng năm tập manga hợp tuyển và ba mùa anime truyền hình chuyển. Mùa anime đầu tiên gồm 13 tập, phát sóng từ ngày 5 tháng 4 cho đến ngày 28 tháng 6 năm 2013. Tiếp đến là mùa thứ hai với 13 tập, phát sóng từ ngày 3 tháng 4 cho đến ngày 26 tháng 6 năm 2015. Cuối cùng là mùa thứ ba với 12 tập, phát sóng từ ngày 9 tháng 7 cho đến ngày 24 tháng 9 năm 2020. Phiên bản manga chuyển thể đã được Thaihabooks mua bản quyền và dự kiến phát hành trong năm 2022.[5]

Một phần game visual novel với tựa "Yahari Game demo Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru." được 5pb phát hành cho hệ máy PlayStation Vita vào ngày 19 tháng 9 năm 2013. Phần game thứ hai cũng được 5pb phát hành cho hệ máy PlayStation Vita vào ngày 27 tháng 10 năm 2016.[6][7] Cả hai phần game đã được phát hành phiên bản dành cho hệ máy PlayStation 4 vào ngày 26 tháng 10 năm 2017.

Nội dung

Câu chuyện xoay quanh một học sinh cao trung với tâm lý chống đối xã hội tên là Hikigaya Hachiman. Cậu ta có một cái nhìn đầy méo mó về cuộc sống, do đó cậu không có bất kì người bạn cũng như một cô bạn gái nào. Khi Hachiman thấy những người khác hào hứng nói chuyện về tuổi trẻ, cậu lẩm bẩm: "Một lũ dối trá". Khi cậu được hỏi về ước mơ cho tương lai của mình, Hachiman trả lời: "Không phải làm việc". Giáo viên môn Văn Học cổ điển của cậu, Hiratsuka Shizuka bắt Hachiman phải tham gia vào "Câu lạc bộ tình nguyện" (Service Club), nơi cậu vô tình gặp Yukinoshita Yukino - cô gái xinh đẹp nhất trường. Sau khi cả hai người nhận được yêu cầu giúp Yuigahama Yui tự làm bánh bích quy của mình và sau đó chính cô cũng gia nhập CLB. Sinh hoạt CLB cùng với hai cô gái xinh đẹp, "Đúng rồi, chuyện tình thanh xuân phải là như thế này chứ!"- cậu tự nhủ vậy. Tuy rằng không có tươi đẹp đến mức ấy, nhưng Hachiman đã trải qua rất nhiều chuyện ở trong lẫn ngoài CLB, dần dần có nhiều kỷ niệm đẹp với Yukinoshita và Yuigahama. Cũng vì vậy, quan niệm sống của cậu đã thay đổi.

Nhân vật

Câu lạc bộ tình nguyện

Ba nhân vật chính trong bộ truyện đều là thành viên của Câu lạc bộ Tình nguyện của trường trung học Sōbu, được điều hành bởi Yukinoshita Yukino.

Hikigaya Hachiman (比企谷 (ひきがや) 八幡 (はちまん)?)

Lồng tiếng bởi: Eguchi Takuya
Hachiman là học sinh lớp 2-F của Cao trung Sōbu, cậu là một kẻ cô độc có cái nhìn đầy méo mó về cuộc sống. Cậu tin rằng tuổi trẻ là một ảo ảnh được tạo ra bởi những kẻ đạo đức giả, dành cho những kẻ đạo đức giả. Câu chuyện trong Oregairu được kể qua góc nhìn của cậu.

Yukinoshita Yukino ( (ゆき) (した) 雪乃 (ゆきの)?)

Lồng tiếng bởi: Hayami Saori
Yukino là học sinh của lớp 2-J và là chủ tịch của Câu lạc bộ Tình nguyện. Cô là thành viên duy nhất cho đến khi Hachiman tham gia. Yukino là con gái út của một gia đình giàu có, cô vô cùng tài giỏi, thông minh, xinh đẹp và cũng không kém phần lạnh lùng. Cũng chính bởi sự xuất chúng của mình mà cô thường bị mọi người xa lánh.

Yuigahama Yui (由比 (ゆい) () (はま) 結衣 (ゆい)?)

Lồng tiếng bởi: Toyama Nao
Yui là bạn cùng lớp của Hachima và là thành viên của nhóm Hayato. Cô là 1 cô gái vui vẻ, hướng ngoại, cô trở thành "khách hàng" đầu tiên của Câu lạc bộ Tình nguyện, yêu cầu họ giúp cô nướng bánh cho "một người nào đó". Cô đã giữ tình cảm với Hachiman kể từ khi cậu cứu chú chó của mình vào ngày đầu tiên ở trường trung học. Cô là sợi dây gắn kết không thể thiếu của 3 người trong câu lạc bộ.

Lớp 2-F

Totsuka Saika (戸塚 (とつか) 彩加 (さいか)?)

Lồng tiếng bởi: Komatsu Mikako
Totsuka là hội trưởng CLB tennis, cũng như là bạn cùng lớp với Hachiman. Cậu được các bạn cùng lớp gọi là "Hoàng tử". Cậu có ngoại hình giống "con gái" nên nhiều lần khiến Hachiman phải đỏ mặt, quên mất cậu là con trai. Totsuka có tính cách e thẹn, hiền lành và dễ thương khiến biết bao chàng trai bị mê hoặc và nhầm lẫn về giới tính của cậu. Totsuka rất quý mến Hachiman.

Hayama Hayato (葉山 (はやま) 隼人 (はやと)?)

Lồng tiếng bởi: Kondō Takashi
Hayato là bạn cùng lớp với Hachiman, vô cùng nổi bật trong lớp. Ngoại hình ưa nhìn, tính cách chan hòa, thu hút cả nam lẫn nữ. Có thể nói, Hayama là một Riajuu chính hiệu. Anh ấy rất tử tế với những người khác kể cả Hachiman, và thường giúp đỡ mọi người. Anh và Yukino có một số căng thẳng trong mối quan hệ của họ, xuất phát từ một sự cố trong quá khứ. Mặc dù nổi tiếng và thành công, anh cảm thấy thua kém nhiều so với Hachiman.

Miura Yumiko (三浦 (みうた) 優美子 (ゆみこ)?)

Lồng tiếng bởi: Inoue Marina
Yumiko là một cô gái nổi tiếng từ lớp 2-F với tính cách hào hoa. Cô là nhân vật nữ chính trong đội quân của Hayato. Do sự nổi tiếng của mình, cô không gặp khó khăn trong việc kết bạn, và do đó không có chút hiểu biết nào đối với những người gặp rắc rối xã hội. Cô gạt đi bất cứ điều gì cô không hiểu vì nó được cô coi như một điều "vô nghĩa".

Ebina Hina (海老名 (えびな) 姫菜 (ひな)?)

Lồng tiếng bởi: Sasaki Nozomi
Hina là một fujoshi từ lớp 2-F, người trong nhóm của Hayato. Cô có thói quen giảng về sở thích của mình bất cứ khi nào cô cảm thấy phấn khích, và do đó thường bị các bạn nam cùng lớp tránh né. Hina biết về cảm xúc của Kakeru đối với cô ấy trong chuyến đi học, nhưng cô không muốn tham gia vào một mối quan hệ nào vào thời điểm hiện tại do cô ấy thiếu tự tin, và do đó nên cô đã yêu cầu sự giúp đỡ từ Hachiman, người đã thành công, để giúp duy trì hiện trạng.

Kawasaki Saki (川崎 (かわさき) 沙希 (さき)?)

Lồng tiếng bởi: Koshimizu Ami
Saki là bạn cùng lớp của Hachiman, người có vẻ như là một kẻ phạm pháp nhưng muốn kết bạn sâu sắc. Cô quan tâm sâu sắc đến em trai mình khi cô giấu tên và tuổi của mình để làm việc bán thời gian vào ca đêm để trả học phí và giảm tải cho gia đình. Sau khi em trai cô nhờ sự giúp đỡ của Câu lạc bộ Tình nguyện, cuối cùng họ cũng theo Saki đến nơi làm việc của cô và tìm ra động cơ của cô đằng sau ca đêm; cô đã ngừng làm việc sau khi Hachiman gợi ý cho cô nhắm tới học bổng thay thế. Mặc dù điều này không được phát triển trong anime, nhưng cô ấy dường như chứa đựng tình cảm với Hachiman, đến mức cô ấy hầu như không thể nhìn vào mắt anh ấy. Hachiman chẳng bao giờ nhớ nổi tên cô, luôn gọi cô là "Kawa-gì-đó" (川なんとかさん Kawa-nantoka-san).

Tobe Kakeru (戸部 (とべ) (かける)?)

Lồng tiếng bởi: Horii Chado
Tobe là một thành viên của nhóm Hayato, người trong câu lạc bộ bóng đá. Anh có tình cảm với Hina và là chàng trai duy nhất trong lớp ủng hộ kịch bản của Hina cho lễ hội văn hóa. Trong chuyến tham quan của trường, anh dự định sẽ tỏ tình với Hina và do đó yêu cầu sự giúp đỡ từ Câu lạc bộ Tình nguyện. Tuy nhiên, vì Hachiman hiểu lập trường hiện tại của Hina là không có mối quan hệ nào, anh ta nghĩ rằng những gì đổ vỡ không thể sửa chữa và do đó đã thú nhận với Hina trước Kakeru. Sự từ chối của Hina đối với Hachiman đã ngăn Kakeru thành công thú nhận với cô, do đó duy trì hiện trạng.

Yamato (大和 (やまと)?)

Lồng tiếng bởi: Kawahara Yoshihisa
Yamato là một thành viên của nhóm Hayato, người trong câu lạc bộ bóng bầu dục.

Ōoka (大岡 (おおおか)?)

Lồng tiếng bởi: Shiraishi Minoru
Ōoka là một thành viên của nhóm Hayato, người trong câu lạc bộ bóng chày.

Sagami Minami (相模 (さがみ) (みなみ)?)

Lồng tiếng bởi: Kotobuki Minako
Minami là người lãnh đạo của nhóm có ảnh hưởng lớn thứ hai trong lớp 2-F và có ác cảm với Yui, người mà cô ấy thân thiện trong năm học trung học đầu tiên của họ, vì đã ở trong nhóm cao cấp. Cô tình nguyện làm người tổ chức sự kiện cho lễ hội văn hóa để phát huy giá trị của mình mà không có khả năng thực sự để làm một công việc như vậy, và do đó yêu cầu sự giúp đỡ từ Câu lạc bộ Tình nguyện. Do đó, Yukino đã đảm nhận vai trò trợ lý tổ chức sự kiện và khẳng định sự chú ý trong việc biến lễ hội văn hóa thành một lễ hội thành công, điều này khiến cho Minami chán nản về sự vô dụng của chính mình và từ chối tổ chức lễ bế mạc. Tuy nhiên, vì lời trách mắng dữ dội của Hachiman đã biến mình thành vật tế thần và chuyển sự đổ lỗi ra khỏi Minami, cô ấy đã tham dự lễ bế mạc và kết thúc lễ hội văn hóa một cách cao cả.

Các nhân vật khác

Hikigaya Komachi (比企谷 (ひきがや) 小町 (こまち)?)

Lồng tiếng bởi: Aoi Yūki
Là em gái của Hachiman, hiện đang học năm 3 cấp 2. Cô là một cô bé dễ thương, năng động và rất yêu quý anh trai. Cô bé thường hay cố ghép đôi Hachiman với Yukino hoặc Yui.

Hiratsuka Shizuka (平塚 (ひらつか) (しずか)?)

Lồng tiếng bởi: Yuzuki Ryōka
Shizuka là giáo viên môn văn học cổ điển và là cố vấn cho câu lạc bộ dịch vụ. Cô nhận thức được "vấn đề" được cho là của Hachiman và thực hiện các bước để đảm bảo anh được giải thoát khỏi chúng, động thái đầu tiên của cô là buộc anh tham gia Câu lạc bộ dịch vụ. Tuy nhiên, cô ấy dường như có một số điều kỳ quặc của riêng mình: cô ấy là một người hút thuốc trẻ tuổi, cô ấy rất nhạy cảm về tuổi tác và tình trạng độc thân của cô ấy, và cô ấy thường có xu hướng trích dẫn hoặc sao chép các cảnh từ manga shounen nổi tiếng. Ngoài ra, cô không bao giờ nhớ gõ cửa trước khi vào lớp học của Câu lạc bộ Tình nguyện, với sự thất vọng của Yukino. Sau sự kiện lễ hội văn hóa, cô nói với Hachiman rằng việc giúp đỡ người khác không nên là lý do để Hachiman tự làm tổn thương mình, vì có những người khác sẽ cảm thấy đau đớn khi thấy Hachiman bị tổn thương.

Zaimokuza Yoshiteru (材木座 (ざいもくざ) 義輝 (よしてる)?)

Lồng tiếng bởi: Hiyama Nobuyuki
Yoshiteru là một học sinh từ lớp 2-C mắc chứng ảo tưởng tuổi vị thành niên. Cậu ấy xem Hachiman như một người bạn sau khi hai người được ghép đôi với nhau trong các tiết thể dục. Cậu ta đặt mục tiêu trở thành một tác giả light novel.

Yukinoshita Haruno ( (ゆき) (した) 陽乃 (はるの)?)

Lồng tiếng bởi: Nakahara Mai
Haruno là chị gái của Yukino. Khác với Yukino, ban đầu cô ấy thể hiện thái độ tốt với người khác nhưng cuối cùng lại thể hiện tính cách nham hiểm. Haruno thậm chí tuyên bố cô sẽ tiêu diệt những người cô ghét. Mặc dù là một sinh viên đại học, cô vẫn dành nhiều thời gian để theo dõi cuộc sống của em gái mình. Yukino giữ sự thù địch mạnh mẽ đối với cô và Haruno chỉ có thể nói em gái cô liên tục cố gắng vượt qua cô như dễ thương. Tuy nhiên, Haruno cuối cùng cũng thể hiện mối hận thù của riêng mình với Yukino và khiến Yukino và Hachiman cảm thấy tồi tệ trong phần 2. Cô là cựu học sinh của trường trung học Sōbu. Cô thừa nhận sự nhận thức của Hachiman và thường tinh nghịch trêu chọc anh. Cô ấy xinh đẹp, giàu có và lôi cuốn khiến mọi người (bao gồm cả khán giả của loạt phim) chỉ nhìn thấy mặt tốt của cô ấy, trì hoãn cô ấy và bỏ qua những vấn đề lớn mà cô ấy gây ra cho người khác. Chẳng hạn, trong phần 1, Haruno bất ngờ xuất hiện để đột ngột can thiệp vào Lễ hội văn hóa nơi vai trò của cô trở thành để khuyến khích Hội trưởng thực hiện dễ dàng, dẫn đến các nhiệm vụ bị trì hoãn. Hachiman tham gia vào việc chùng người và đảm nhận vai trò đổ lỗi thông thường của mình bằng cách phàn nàn vì lợi ích của người khác, những lời phàn nàn chỉ khiến anh ta bị chỉ trích, dẫn anh ta đến một cuộc đối đầu kịch tính với Chủ tịch Liên hoan.

Kawasaki Taishi (川崎 (かわさき) 大志 (たいし)?)

Lồng tiếng bởi: Murase Ayumu
Taishi là em trai của Saki và là bạn cùng lớp của Komachi. Cậu ấy có mối quan hệ tốt với Komachi.

Tsurumi Rumi (鶴見 (つるみ) 留美 (るみ)?)

Lồng tiếng bởi: Morohosi Sumire
Rumi là một học sinh tiểu học cô đơn, bị các bạn cùng lớp xa lánh. Cô bé trầm tính và có phần chín chắn hơn những đứa trẻ đồng lứa.

Shiromeguri Meguri (城廻 (しろめぐり) めぐり?)

Lồng tiếng bởi: Asakura Azumi
Meguri là học sinh năm ba và là cựu chủ tịch hội học sinh của trường trung học Sōbu. Mặc dù bản thân cô không phải là một nhà lãnh đạo đáng tin cậy, nhưng tính cách của cô đã mang lại sự ủng hộ to lớn từ các thành viên hội học sinh và do đó cô có thể đoàn kết các thành viên của hội.

Isshiki Iroha (一色 (いっしき) いろは?)

Lồng tiếng bởi: Sakura Ayane
Iroha là học sinh năm thứ nhất quản lý đội bóng đá, vui vẻ và xinh đẹp. Khi được đề nghị làm ứng cử viên cho chủ tịch hội học sinh trong một trò chơi khăm, vì không thích vai trò này, cô đã gửi một yêu cầu đến Câu lạc bộ Tình nguyện để không được bầu và không thua trong một kiểu xấu hổ. Cuối cùng, cô chấp nhận vai trò là chủ tịch hội học sinh sau khi Hachiman tìm cách thuyết phục cô. Giống như hầu hết mọi người, cô ấy coi thường Hachiman. Cô - kiêu ngạo và lịch sự - thường xuyên từ chối anh khi cô nghĩ anh sắp thú nhận với cô. Tuy nhiên, cô không bao giờ có thể làm công việc của mình với tư cách là chủ tịch hội học sinh và liên tục tìm kiếm sự giúp đỡ của anh ấy và phát triển một số quan tâm đến anh ấy.

Orimoto Kaori (折本 (おりもと) かおり?)

Lồng tiếng bởi: Tomatsu Haruka
Kaori là bạn cùng lớp của Hachiman ở trường cấp hai, người mà anh đã tỏ tình trong quá khứ. Cô học trường trung học phổ thông Kaihin

Nakamachi Chika (仲町 (なかまち) 千佳 (ちか)?)

Lồng tiếng bởi: Fujita Saki
Chika là bạn và là bạn học của Kaori tại trường trung học Kaihin.

Tamanawa (玉縄 (たまなわ)?)

Lồng tiếng bởi: Hino Satoshi
Tamanawa là chủ tịch hội đồng học sinh của trường trung học Kaihin.

Mẹ Yukinoshita ( (ゆき) (した) (はは)?)

Lồng tiếng bởi: Inoue Kikuko
Mẹ của Haruno và Yukino.

Mẹ Yuigahama (由比ヶ浜 (ゆいがはま) (はは)?)

Lồng tiếng bởi: Ohara Sayaka
Mẹ của Yui và có mối quan hệ gần gũi với Yui.

Các tập light novel

Loạt light novel do Watari Wataru sáng tác và Ponkan⑧ minh hoạ. Được Shogakukan xuất bản dưới ấn hiệu Gagaga Bunko kể từ ngày 18 tháng 3 năm 2011[8] cho đến ngày 19 tháng 11 năm 2019, khi bộ truyện chính thức khép lại ở tập thứ 14. Tính đến ngày 17 tháng 9 năm 2021 đã có 14 tập chính truyện,[9] 4 tập tuyển tập truyện ngắn,[10][11][12][13] 4 tập Anthology (hợp tuyển) và 1 tập truyện spin-off được xuất bản.

Phiên bản đặc biệt của tập 3 và 7 tặng kèm theo các đĩa CD Drama,[14][15] còn bản đặc biệt của tập 4 và 8 tặng kèm theo các cuốn artwork do Ponkan⑧ và các họa sĩ khách mời minh hoạ.[16][17] Ba tập ngắn bổ sung 6.25, 6.50 và 6.75 được tặng kèm theo đĩa BD/DVD số 1, 3 và 5 phiên bản giới hạn của anime mùa 1, về sau ba tập ngắn này được phát hành dưới dạng một tập duy nhất, đánh số là 6.5.[10] Phiên bản đặc biệt số lượng có hạn của tập này tặng kèm theo một đĩa CD Drama.[18]

Phần ANOTHER, do chính Wataru sáng tác, nội dung kể về Oregairu trong một diễn biến hoàn toàn khác và không có liên hệ gì tới phần chính truyện. Truyện được chia làm 7 tập ngắn, là quà tặng kèm theo đĩa BD/DVD của anime mùa 2.

Có 4 tập Anthology (hợp tuyển) do Watari Wataru và một số tác giả khác cùng sáng tác. Nội dung kể về những sự kiện diễn ra sau tập 14. Tập 1 với tựa "Yukino Side"[19] và tập 2 với tựa "On Parade"[20] cùng được phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 2020. Tập 3 với tựa "Yui Side"[21] và tập 4 với tựa "All Stars"[22] cùng được phát hành vào ngày 17 tháng 4 năm 2020.

Phần hậu truyện chính thức, với tựa: "Yahari Ore no Seishun Love Come wa Machigatteiru. Shin" được chia làm 6 tập ngắn, là quà tặng kèm theo đĩa BD/DVD của anime mùa 3.[23] Nội dung kể về những sự kiện diễn ra sau tập 14 của light novel. Tập 1 phát hành ngày 25 tháng 9 năm 2020.[24] Tập 2 phát hành ngày 28 tháng 10 năm 2020.[25] Tập 3 phát hành ngày 28 tháng 11 năm 2020.[26] Tập 4 phát hành ngày 15 tháng 1 năm 2021.[27] Tập 5 phát hành ngày 8 tháng 3 năm 2021.[28] Tập 6 phát hành ngày 26 tháng 3 năm 2021.[29]

Một phần spin-off với tựa "Yahari Ore no Seishun Love Come wa Machigatteiru. Ketsu" được công bố lần đầu vào ngày 17 tháng 1 năm 2021 tại sự kiện Oregairu Fes FINAL.[30] Phần truyện này được chuyển thể dựa trên phần ANOTHER, tập đầu tiên được phát hành vào ngày 17 tháng 9 năm 2021.

Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm

#Phát hành Tiếng NhậtPhát hành Tiếng Việt
Ngày phát hànhISBNNgày phát hànhISBN
1 18 tháng 3, 2011978-4-09-451262-513 tháng 10, 2017978-604-967-843-1
2 20 tháng 7, 2011978-4-09-451286-12 tháng 2, 2018978-604-969-254-3
3 18 tháng 11, 2011978-4-09-451304-229 tháng 6, 2018978-604-967-844-8
4 16 tháng 3, 2012978-4-09-451332-53 tháng 10, 2018978-604-967-845-5
5 18 tháng 7, 2012978-4-09-451356-115 tháng 3, 2019978-604-967-846-2
6 20 tháng 11, 2012978-4-09-451380-615 tháng 3, 2019978-604-55-3448-9
6.5 22 tháng 7, 2014978-4-09-451501-515 tháng 7, 2020978-604-55-6040-2
7 19 tháng 3, 2013978-4-09-451402-515 tháng 7, 2019978-604-55-4235-4
7.5 20 tháng 8, 2013978-4-09-451434-618 tháng 12, 2019978-604-55-4697-0
8 19 tháng 11, 2013978-4-09-451451-318 tháng 12, 2019978-604-55-4698-7
9 18 tháng 4, 2014978-4-09-451482-718 tháng 12, 2019978-604-55-4738-0
10 18 tháng 11, 2014978-4-09-451523-728 tháng 4, 2020978-604-55-4738-0
10.5 18 tháng 3, 2015978-4-09-451542-820 tháng 11, 2020978-604-55-7215-3
11 24 tháng 6, 2015978-4-09-451558-92 tháng 2, 2021978-604-55-7620-5
12 20 tháng 9, 2017978-4-09-451674-618 tháng 6, 2021978-604-55-9227-4
13 20 tháng 11, 2018978-4-09-451762-017 tháng 11, 2021978-604-55-9228-1
14 19 tháng 11, 2019978-4-09-451781-113 tháng 11, 2022978-604-374-969-4
14.5 20 tháng 4, 2021978-4-09-453004-917 tháng 5, 2023978-604-55-9157-4

Anthology

#Nhan đềPhát hành Tiếng NhậtPhát hành Tiếng Việt
1Yukino Side18/3/2020
978-4-09-451835-1
-
2On Parade18/3/2020
978-4-09-451836-8
-
3Yui Side20/4/2020
978-4-09-451845-0
-
4All Stars20/4/2020
978-4-09-451846-7
-

Truyền thông

Anime

Mùa anime đầu tiên gồm 13 tập, chuyển thể từ tập 1 đến tập 6 của light novel. Sản xuất bởi studio Brain's Base, do Yoshimura Ai đạo diễn. Phát sóng từ ngày 5 tháng 4 cho đến ngày 28 tháng 6 năm 2013,[32] với một tập phim nguyên gốc anime do chính Watari Wataru chắp bút.[33] Mùa phim có một tập OVA được tặng kèm cùng phiên bản giới hạn của phần game đầu tiên, phát hành vào ngày 19 tháng 9 năm 2013.[34] Ca khúc opening là "Yukitoki" (ユキトキ) thể hiện bởi Yanagi Nagi. Ca khúc ending là "Hello Alone" thể hiện bởi Hayami Saori và Tōyama Nao.[35] Bộ anime đã được cấp phép bởi Sentai Filmworks ở Bắc Mỹ và được Madman Entertainment cấp phép ở ÚcNew Zealand.[36][37][38]

Mùa thứ hai được Shogakukan công bố vào năm 2014.[39] Mùa này có tựa đề "Yahari Ore no Seishun Love Come wa Machigatteiru. Zoku" gồm 13 tập, chuyển thể từ tập 7 đến tập 11 của light novel. Sản xuất bởi studio Feel và đạo diễn bởi Oikawa Kei, phần thiết kế nhân vật do Tanaka Yuichi đảm nhiệm.[40] Phát sóng từ ngày 3 tháng 4 cho đến ngày 26 tháng 6 năm 2015. Ca khúc opening là "Harumodoki" (春擬き) thể hiện bởi Yanagi Nagi.[41] Ca khúc ending là "Everyday World." (エブリデイワールド) thể hiện bởi Hayami Saori và Tōyama Nao.[42] Mùa hai đã được cấp phép bởi Sentai Filmworks.[43] Mùa phim có một tập OVA, với tiêu đề "Kitto, onna no ko wa osatō to supaisu to suteki na nani ka de dekite iru" (きっと、女の子はお砂糖とスパイスと素敵な何かでできている? "Chắc chắn, các cô gái được làm từ đường, gia vị và thứ gì đó tuyệt vời"), được tặng kèm cùng phiên bản giới hạn của phần game thứ hai, phát hành vào ngày 27 tháng 10 năm 2016.[44]

Mùa thứ ba được Shogakukan công bố vào ngày 18 tháng 3 năm 2019[45] với tựa đề "Yahari Ore no Seishun Love Come wa Machigatteiru. Kan" gồm 12 tập, chuyển thể từ tập 12 đến tập 14 của light novel. Sản xuất bởi Studio Feel[46] và đạo diễn bởi Oikawa Kei, phần thiết kế nhân vật do Tanaka Yuichi đảm nhiệm.[47] Ban đầu được dự kiến phát sóng từ ngày 9 tháng 4 năm 2020 nhưng do ảnh hưởng của dịch COVID-19 [48] nên tới ngày 9 tháng 7 mùa ba mới chính thức được phát sóng, đến ngày 24 tháng 9 năm 2020 thì kết thúc. Ca khúc opening là "Megumi no Ame" (芽ぐみの雨) thể hiện bởi Yanagi Nagi, và ca khúc ending là "Diamond no Jundo" (ダイヤモンドの純度) thể hiện bởi Hayami Saori và Tōyama Nao.[49] Mùa 3 đã được Sentai Filmworks cấp phép phát hành toàn cầu, ngoại trừ khu vực Châu Á.[50] Tại Đông Nam Á, mùa 3 được cấp phép bởi Medialink và phát sóng trên nền tảng xem video trực tuyến iQIYI[51]. Ngày 17 tháng 1 năm 2021, tại sự kiện Oregairu Fes FINAL, mùa 3 được công bố sẽ có một tập OVA. Tập phim này sẽ được tặng kèm cùng với phần game thứ ba.[30]

Manga

Bộ truyện có hai bản manga chuyển thể, một phần manga spin-off cùng năm tập manga hợp tuyển.

Phiên bản manga chuyển thể đầu tiên có tựa "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. Monologue" do Kazuki Rechi minh hoạ, được đăng trên tạp chí Big Gangan của Square Enix kể từ ngày 25 tháng 9 năm 2012.[52] Bộ truyện kết thúc vào ngày 25 tháng 4 năm 2023.[53] Các chương manga hiện đã được biên tập thành 22 tập tankobon.

Phiên bản manga chuyển thể thứ hai có tựa "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. @Comic" do Io Naomichi minh hoạ, được đăng trên Nguyệt san Sunday Gene-X của Shogakukan kể từ ngày 19 tháng 12 năm 2012. Bộ phim kết thúc vào ngày 17 tháng 2 năm 2023. Các chương manga hiện đã được biên tập thành 22 tập tankobon. Bộ truyện đã được Thaihabooks mua bản quyền phát hành và dự kiến phát hành trong năm 2022.[5]

Phiên bản thứ ba, với tựa: "Yahari 4-koma demo Ore no Seishun Rabu Kome wa machigatteiru". Là một bộ manga bốn khung do Taneda Yuta sáng tác và mình hoạ, được xuất bản bởi Ichijinsha. Bộ manga gồm 2 tập. Tập đầu tiên xuất bản vào ngày 21 tháng 6 năm 2014, tập thứ hai xuất bản vào ngày 22 tháng 7 năm 2015.

Ngoài ra, còn có 4 tập manga hợp tuyển mang tên "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. Manga Anthology" do nhiều tác giả đồng sáng tác, được Ichijinsha xuất bản. Manga là phiên bản ngắn gọn hơn của light novel, được minh hoạ theo phong cách chibi. Tập đầu tiên xuất bản vào ngày 25 tháng 5 năm 2013 và tập thứ tư xuất bản vào ngày 28 tháng 1 năm 2016.

Có 1 tập manga mang tên "Yahari Ore no Seishun Rabu Kome wa Machigatteiru. GX Comic Anthology". Tập manga được minh hoạ và sáng tác bởi nhiều hoạ sĩ, tác giả khác nhau. Được xuất bản vào ngày 17 tháng 7 năm 2020.[54]

Oregairu Monologue

#Ngày phát hành ISBN
1 19/3/2013[55]978-4-7575-3925-9
2 20/8/2013[56]978-4-7575-4031-6
3 25/12/2013[57]978-4-7575-4193-1
4 24/5/2014[58]978-4-7575-4318-8
5 18/11/2014[59]978-4-7575-4466-6
6 18/3/2015[60]978-4-7575-4581-6
7 18/6/2015[61]978-4-7575-4663-9
8 25/12/2015[62]978-4-7575-4845-9
9 25/7/2016[63]978-4-7575-5062-9
10 25/1/2017[64]978-4-7575-5226-5
11 25/8/2017[65]978-4-7575-5456-6
12 24/3/2018[66]978-4-7575-5675-1
13 25/3/2019[67]978-4-7575-5897-7
14 25/6/2019[68]978-4-7575-6174-8
15 25/11/2019 [69]978-4-7575-6359-9
16 25/3/2020[70]978-4-7575-6578-4
17 22/7/2020[71]978-4-7575-6714-6
18 25/1/2021[72]978-4-7575-7052-8
19 26/07/2021[73]978-4-7575-7380-2
20 25/03/2022[74]978-4-7575-7841-8
21 25/11/2022[75]978-4-7575-8272-9
22 25/07/2023[76]978-4-7575-8693-2

Oregairu @comic

#Phát hành Tiếng NhậtPhát hành vi
Ngày phát hànhISBNNgày phát hànhISBN
1 17/05/2013[77]978-4-09-157349-013 tháng 11, 2022978-604-382-316-5
2 19/11/2013[78]978-4-09-157362-9-- ISBN không hợp lệ
3 19/05/2014[79]978-4-09-157377-3-- ISBN không hợp lệ
4 19/11/2014[80]978-4-09-157396-4-- ISBN không hợp lệ
5 19/05/2015[81]978-4-09-157417-6-- ISBN không hợp lệ
6 21/11/2015[82]978-4-09-157430-5-- ISBN không hợp lệ
7 17/06/2016[83]978-4-09-157450-3-- ISBN không hợp lệ
8 18/11/2016[84]978-4-09-157464-0-- ISBN không hợp lệ
9 19/05/2017[85]978-4-09-157486-2-- ISBN không hợp lệ
10 17/11/2017[86]978-4-09-157506-7-- ISBN không hợp lệ
11 18/05/2018[87]978-4-09-157525-8-- ISBN không hợp lệ
12 19/11/2018[88]978-4-09-157550-0-- ISBN không hợp lệ
13 19/04/2019[89]978-4-09-157563-0-- ISBN không hợp lệ
14 19/11/2019[90]978-4-09-157581-4-- ISBN không hợp lệ
15 19/03/2020[91]978-4-09-157592-0-- ISBN không hợp lệ
16 18/09/2020[92]978-4-09-157606-4-- ISBN không hợp lệ
17 19/02/2021[93]978-4-09-157623-1-- ISBN không hợp lệ
18 19/07/2021[94]978-4-09-157642-2-- ISBN không hợp lệ
19 17/12/2021[95]978-4-09-157664-4-- ISBN không hợp lệ
20 19/05/2022[96]978-4-09-157679-8-- ISBN không hợp lệ
21 19/10/2022[97]978-4-09-157691-0-- ISBN không hợp lệ
22 18/04/2023[98]978-4-09-157750-4-- ISBN không hợp lệ

Oregairu 4-koma

#Ngày phát hành ISBN
1 21/6/2014[99]978-4-7580-8203-7
2 22/7/2015[100]978-4-7580-8243-3

Oregairu Manga Anthology

#Ngày phát hành ISBN
1 25/5/2013[101]978-4-7580-0748-1
2 25/7/2013[102]978-4-7580-0765-8
3 25/8/2015[103]978-4-7580-0856-3
4 28/1/2016[104]978-4-7580-0887-7

Drama CD

Drama CD đầu tiên, có tựa Tatoeba Konna Birthday Song (Nhật: たとえばこんなバースデーソング? "Giả như có một bài hát chúc mừng sinh nhật như thế này"), được tặng kèm cùng phiên bản đặc biệt của light novel tập 3,[14] xuất bản vào ngày 18 tháng 11 năm 2011. Đĩa có chứa một ca khúc mang tên "Bright Generation" sáng tác bởi Hashimoto Yukari, do Hayami Saori cùng Tōyama Nao thể hiện. Về sau Drama CD này được chuyển thể thành bonus track của light novel tập 3.

Drama CD thứ hai, với tựa Hikigaya Komachi no Keiryaku (Nhật: 比企谷小町の計略? "Kế hoạch của Hikigaya Komachi"), được mở bán lần đầu tại gian hàng của Marvelous AQL trong sự kiện Comiket 83, diễn ra từ ngày 29 cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2012. Về sau Drama CD này được chuyển thể thành bonus track của light novel tập 7.5.

Drama CD thứ ba, có tựa Kanojotachi no, We Will Rock You (Nhật: 彼女たちの、うぃー・うぃる・ろっく・ゆー♡?), được tặng kèm cùng phiên bản đặc biệt của light novel tập 7,[15] xuất bản vào ngày 19 tháng 3 năm 2013. Đĩa có chứa một ca khúc mang tên "Rock You!!" sáng tác bởi Saitou Yūya, do Hayami Saori cùng Tōyama Nao thể hiện. Về sau Drama CD này được chuyển thể thành bonus track của light novel tập 7.

Drama CD thứ tư, có tựa Sono Christmas Candle no Akari ga Yureru Toki... (Nhật: そのクリスマスキャンドルの灯が揺れる時......。? "Khi ánh nến Giáng sinh đung đưa lay động...") được tặng kèm cùng phiên bản đặc biệt của light novel tập 6.5,[18] xuất bản vào ngày 19 tháng 7 năm 2014. Đĩa có chứa một ca khúc mang tên "Kimi to Merry Christmas" do Hayami Saori cùng Tōyama Nao thể hiện. Về sau Drama CD này được chuyển thể thành bonus track của light novel tập 6.5.

Trò chơi điện tử (Video games)

Một tựa game, có tiêu đề "Yahari Game demo Ore no Seishun Rabukome wa Machigatteiru." do 5pb phát triển cho hệ máy PlayStation Vita, được phát ngày 19 tháng 9 năm 2013. Phiên bản giới hạn của tựa game tặng kèm theo một tập OVA.

Phần game thứ hai cũng do 5pb phát triển, được phát hành vào ngày 27 tháng 10 năm 2016. Phiên bản giới hạn của phần game tặng kèm theo một tập OVA.

Loạt game được dự kiến sẽ có phần thứ 3.[30]

Đón nhận

Oregairu được bầu chọn là light novel hay nhất của bảng xếp hạng uy tín Kono Light Novel ga Sugoi! trong 3 năm liên tiếp là 2014, 2015 và 2016.[105] Trong các năm đó Hachiman cũng được bầu làm nhân vật nam được yêu thích nhất. Còn Yukino được bầu làm nhân vật nữ được yêu thích nhất trong năm 2015. Họa sĩ minh họa Ponkan⑧ cũng được bình chọn là họa sĩ minh họa được yêu thích nhất trong năm 2015 và 2016.

Theo thống kê của Gagaga Bunko, tính đến ngày 14 tháng 9 năm 2017, Oregairu đã bán được hơn 7 triệu bản tại thị trường Nhật.[106] Tới ngày 17 tháng 12 năm 2019, Oregairu đã bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới.[107]

Tham khảo

  1. ^ My Teen Romantic Comedy ~ SNAFU - Sentai Filmworks”. Sentai Filmworks. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2014.
  2. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。?
  3. ^ 『やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。』略称を考えるコーナー (bằng tiếng Nhật). Wataru Watari. ngày 15 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.
  4. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2015.
  5. ^ a b Hikari Light Novel - Thaihabooks (1 tháng 12 năm 2021). “Thành viên mới của Hikari trong năm 2021!”. facebook.com. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2021.
  6. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2021.
  7. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2015.
  8. ^ “Oregairu vol 1”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2020.
  9. ^ “Oregairu vol 14”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  10. ^ a b “Oregairu vol 6.5”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  11. ^ “Oregairu vol 7.5”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  12. ^ “Oregairu vol 10.5”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  13. ^ “Oregairu vol 14.5”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2021.
  14. ^ a b “Oregairu vol 3 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  15. ^ a b “Oregairu vol 7 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  16. ^ “Oregairu vol 4 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  17. ^ “Oregairu vol 8 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  18. ^ a b “Oregairu vol 6.5 bản đặc biệt”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2021.
  19. ^ “Oregairu Anthology vol 1- Yukino Side”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021.
  20. ^ “Oregairu Anthology vol 2 - On Parade”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2021.
  21. ^ “Oregairu Anthology vol 3 - Yui Side”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2021.
  22. ^ “Oregairu Anthology vol 4 - All Stars”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2021.
  23. ^ “Oregairu season 3 BD/DVD”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2021.
  24. ^ “Oregairu Shin vol 1”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022.
  25. ^ “Oregairu Shin vol 2”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022.
  26. ^ “Oregairu Shin vol 3”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022.
  27. ^ “Oregairu Shin vol 4”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022.
  28. ^ “Oregairu Shin vol 5”. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2021.
  29. ^ “Oregairu Shin vol 6”. Amazon.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2021.
  30. ^ a b c “New My Teen Romantic Comedy SNAFU Game to Also Include Original Video Anime”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2021.
  31. ^ Cục xuất bản, in và phát hành - Bộ thông tin và truyền thông. “Chuyện tình thanh xuân bi hài của tôi quả nhiên là sai lầm | Cục xuất bản”. ppdvn.gov.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021.
  32. ^ 'My Youth Romantic Comedy Is Wrong as I Expected' Anime's 1st Promo Streamed”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2019.
  33. ^ My Teen Romantic Comedy SNAFU Gets More Anime”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2019.
  34. ^ My Teen Romantic Comedy SNAFU Game, OVA to Ship on September 19”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2021.
  35. ^ 'My Youth Romantic Comedy Is Wrong as I Expected' Anime's Teaser Posted”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021.
  36. ^ My Teen Romantic Comedy ~ SNAFU - Sentai Filmworks”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016.
  37. ^ “Madman Entertainment Acquisitions From Supanova Pop Culture Expo - Gold Coast”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2020.
  38. ^ “Sentai Filmworks Adds My Teen Romantic Comedy Snafu TV Anime”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2020.
  39. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Anime Gets 2nd Season”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2019.
  40. ^ “Outbreak Company's Oikawa to Direct My Teen Romantic Comedy SNAFU Season 2 at Studio feel”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2019.
  41. ^ 'Nagi Yanagi Returns to Perform 2nd My Teen Romantic Comedy SNAFU Season's Opening”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2020.
  42. ^ “Saori Hayami, Nao Tōyama Return to Sing 2nd My Teen Romantic Comedy SNAFU Season's Ending”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2021.
  43. ^ “Sentai Filmworks Adds Pleiades, Re-Kan, Snafu Too, Hello! Kinmoza, UtaPri Season 3, Is It Wrong to Try to Pick Up Girls in a Dungeon?, Food Wars. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2015.
  44. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU TOO! PS Vita Game to Bundle Original Anime Blu-ray”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2021.
  45. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU TV Anime Gets 3rd Season”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2020.
  46. ^ “Studio feel. Returns for My Teen Romantic Comedy SNAFU TV Anime's 3rd Season in 2020”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2021.
  47. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Anime Season 3's Video Reveals Cast, Staff, Title, Spring Debut & Teases Finale”. Anime News Network. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021.
  48. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Climax TV Anime Broadcast Postponed Due to Coronavirus”. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2020.
  49. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Anime Season 3 Reveals Theme Songs”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2021.
  50. ^ “SENTAI SNAPS UP SEASON 3 OF "MY TEEN ROMANTIC COMEDY SNAFU". Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2021.
  51. ^ “iQiyi Adds 7 Summer Anime for Southeast Asia”. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2021.
  52. ^ “Tạp chí Big Gangan số thứ 10 năm 2012”. Amazon.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2017.
  53. ^ 'My Youth Romantic Comedy Is Wrong, As I Expected -Monologue-' Manga Ends on April 25”. Anime News Network.
  54. ^ “Oregairu GX Comic Anthology”. Shogakukan.co.jp. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2021.
  55. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 1 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  56. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 2 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  57. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 3 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  58. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 4 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  59. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 5 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  60. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 6 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  61. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 7 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  62. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 8 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  63. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 9 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  64. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 10 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  65. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 11 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  66. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 12 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  67. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 13 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  68. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 14 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  69. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 15 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
  70. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 16 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2020.
  71. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 17 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  72. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 18 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2021.
  73. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 19 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2021.
  74. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 20 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2022.
  75. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 21 (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
  76. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。-妄言録- 22 (完) (bằng tiếng Nhật). Square Enix. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
  77. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 1 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  78. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 2 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  79. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 3 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  80. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 4 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  81. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 5 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  82. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 6 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  83. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 7 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  84. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 8 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  85. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 9 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  86. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 10 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  87. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 11 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  88. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 12 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  89. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 13 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  90. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 14 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  91. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 15 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2020.
  92. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 16 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  93. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 17 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2021.
  94. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 18 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2021.
  95. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 19 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2022.
  96. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 20 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2022.
  97. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 21 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2022.
  98. ^ やはり俺の青春ラブコメはまちがっている。@comic 22 (bằng tiếng Nhật). Shogakukan. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2024.
  99. ^ “Oregairu 4-koma vol 1” (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2021.
  100. ^ “Oregairu 4-koma vol 2” (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2021.
  101. ^ “Oregairu Manga Anthology vol 1” (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập Ngày 5 tháng 4 năm 2021.
  102. ^ “Oregairu Manga Anthology vol 2” (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập Ngày 5 tháng 4 năm 2021.
  103. ^ “Oregairu Manga Anthology vol 3” (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập Ngày 5 tháng 4 năm 2021.
  104. ^ “Oregairu Manga Anthology vol 4” (bằng tiếng Nhật). Ichijinsha. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2022. Truy cập Ngày 5 tháng 4 năm 2021.
  105. ^ “My Teen Romantic Comedy SNAFU Tops Kono Light Novel ga Sugoi! List for 2nd Straight Year”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2020.
  106. ^ “Oregairu bán được hơn 7 triệu bản tại thị trường Nhật”. Trang twitter chính thức của Gagaga Bunko.
  107. ^ “Oregairu bán được hơn 10 triệu bản trên toàn thế giới”. Trang twitter chính thức của Gagaga Bunko.

Liên kết ngoài