Chu Quế sinh ngày 18 tháng 7 năm Hồng Vũ thứ 7 (1374), là hoàng tử thứ 13 của Minh Thái Tổ, mẹ là Quách Huệ phi (郭惠妃), con gái của Trừ Dương vương Quách Tử Hưng (郭子興). Chu Quế là con thứ hai của bà Huệ phi, là anh em cùng mẹ với Thục Hiến vươngChu Xuân, Dục vươngChu Huệ, Vĩnh Gia Trinh Ý Công chúa và Nhữ Dương Công chúa.
Năm thứ 11, Chu Quế được phong Dự vương (豫王), sang năm thứ 25 (1392), cải phong làm Đại vương (代王), cùng năm đó chuyển đến thái ấp ở Đại Đồng (nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây).
Đại vương Chu Quế là người hung bạo, nên vào năm Kiến Văn thứ nhất (1399), ông bị vua cháu phế làm thứ dân.[1]
Minh Thành Tổ Chu Đệ lên ngôi đã cho phục tước của Chu Quế nhưng ông vẫn không cải thiện. Chu Quế tham lam, tự tiện sung quân dịch, vơ vét của cải của dân. Thành Tổ liệt kê 32 tội danh của Chu Quế và triệu ông vào triều nhưng ông không đến. Lần triệu thứ hai, đến giữa đường thì vua cho Chu Quế quay về.[2]
Đại vương Chu Quế qua đời vào ngày 12 tháng 12 năm Chính Thống thứ 11 (1446), thụy là Giản (簡).
Bức tường Đại Đồng Cửu Long
Truyền thuyết địa phương ở Đại Đồng kể rằng, Đại vương Chu Quế đã từng đến Bắc Kinh thăm anh trai là Yên vương Chu Đệ, và tỏ ra ganh tị khi nhìn thấy bức tường Cửu Long trong điện của Yên vương. Quay về Đại Đồng, Chu Quế muốn xây một bức tường Cửu Long tráng lệ hơn của Yên vương.
Bức tường Đại Đồng Cửu Long dài 45,5 mét trải dài từ đông sang tây, cao 8 m và dày hơn 2 m, được sơn màu xanh lam. Trên tường có 9 con rồng bay lượn mang hình dáng và màu sắc khác nhau. Đại Long Cửu Long là bức tường lớn nhất và lâu đời nhất trong số những bức tường Cửu Long hiện có ở Trung Quốc, trở thành đơn vị bảo vệ di tích văn hóa trọng điểm quốc gia vào năm 2001.
Gia quyến
Thê thiếp
Đại Vương phi Từ thị (徐氏; ? – 1427),[3] con gái thứ hai của danh tướng Từ Đạt, cũng là em của Từ Hoàng hậu, chánh cung của Minh Thành Tổ. Từ thị được phong Vương phi cùng thời điểm với chồng.[4]
Từ thị (徐氏), gia phong Phu nhân năm Chính Thống thứ 39 (1448). Từ Phu nhân nhiều lần lấy trộm vàng bạc từ phủ Đại vương cho hai con trai là Tốn Đẩu và Tốn Hựu,[6] đến nỗi khi Đại Giản vương qua đời không đủ tiền để làm tang lễ.[7]
Lưu thị (劉氏), cung nhân.
Hậu duệ
Đại vương Chu Quế có 11 con trai và nhiều con gái.
Con trai
Chu Tốn Chuyên (朱遜煓; 1393 – 1418), mẹ là Đại Vương phi, năm Vĩnh Lạc thứ hai (1404) phong Thế tử, mất trước khi tập phong, thụy là Điệu Liệt (悼戾), sau tặng Đại Liệt vương (代戾王).
Chu Sĩ Triền (朱仕㙻; 1410 – 1463), con trưởng, tập tước ông nội, phong hiệu Đại Ẩn vương (代隱王).
Năm Hồng Vũ thứ 25 (1392) phong tước, năm Chính Thống thứ 11 (1446) qua đời, thọ 73 tuổi.
Đại Liệt vương (魯戾王)
Chu Tốn Chuyên (朱遜煓)
Con trai trưởng của Chu Quế
Truy phong
Nguyên là Thế tử, được truy phong Vương khi con trai là Sĩ Triền tập tước, hưởng dương 26 tuổi.
Đại Ẩn vương (蜀隱王)
Chu Sĩ Triền (朱仕㙻)
Con trai trưởng của Tốn Chuyên
1448 – 1463
Năm Chính Thống thứ 13 (1448) tập phong, qua đời năm Thiên Thuận thứ 7 (1463), thọ 64 tuổi.
Đại Huệ vương (蜀惠王)
Chu Thành Luyện (朱成鍊)
Con trai trưởng của Sĩ Triền
1466 – 1489
Năm Thành Hoá thứ 2 (1466) tập phong, năm Hoằng Trị thứ 2 (1489) qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi.
Đại Tư vương (蜀思王)
Chu Thông Huệ (朱聰沬)
Con trai trưởng của Thành Luyện
Truy phong
Nguyên là Quận vương, do ham mê sắc dục và giết một ca kỹ nên bị truất làm thường dân vào năm Hoằng Trị thứ 3 (1490). Con trai là Tuấn Tráng tập tước nên Thông Huệ mới được tặng tước Vương, hưởng dương 35 tuổi.
Đại Ý vương (蜀懿王)
Chu Tuấn Tráng (朱俊杖)
Con trai trưởng của Thông Huệ
1499 – 1527
Do còn nhỏ tuổi nên chú là Thông Quyên (聪涓, con thứ hai của Thành Luyện) quán xuyến các việc trong vương phủ. Năm Hoằng Trị thứ 12 (1499) tập phong và qua đời trong năm Gia Tĩnh thứ 6, thọ 48 tuổi.
Đại Chiêu vương (蜀昭王)
Chu Sung Diệu (朱充燿)
Con trai trưởng của Tuấn Tráng
1530 – 1547
Năm Gia Tĩnh thứ 9 (1530) tập phong, qua đời năm thứ 26 (1547), thọ 51 tuổi.
Đại Cung vương (蜀恭王)
Chu Đình Kỳ (朱廷埼)
Con trai trưởng của Sung Diệu
1549 – 1573
Năm Gia Tĩnh thứ 28 (1549) tập phong, qua đời năm Vạn Lịch thứ nhất (1573), thọ 48 tuổi.
Đại Định vương (蜀定王)
Chu Nãi Huyền (朱鼐鉉)
Con trai trưởng của Đình Kỳ
1581 – 1594
Năm Vạn Lịch thứ 9 (1581) tập phong, qua đời năm thứ 22 (1594), hưởng dương 38 tuổi, không con nối dõi.
Đại Khang vương (蜀康王)
Chu Nãi Quân (朱宣圻)
Con trai thứ hai của Đình Kỳ
1596 – 1627
Năm Vạn Lịch thứ 24 (1596) tập phong, qua đời năm Vạn Lịch thứ 40 (1627), thọ 69 tuổi.
Đại vương (蜀 王)
Chu Đỉnh Vị (朱鼎渭)
Con trai thứ hai của Nãi Quân
1627 – 1629
Năm Thiên Khải thứ 2 (1627) tập phong, qua đời năm thứ 4 (1629), không rõ bao nhiêu tuổi.
Đại vương (蜀王)
Chu Di Đĩnh (朱彝梃)
Con trai trưởng của Đỉnh Vị
1632 – 1639?
Chỉ biết tập phong vào năm Sùng Trinh thứ 5 (1632), không rõ sau đó.
Đại vương (蜀王)
Chu Truyền Tễ (朱平樻)
Con trai trưởng của Di Đĩnh
1639? – 1644
Tập phong ít nhất là vào trước năm Sùng Trinh thứ 12 (1639). Vào năm Sùng Trinh cuối cùng (1644) bị Lý Tự Thành giết khi chiếm được Đại Đồng, kết thúc dòng Đại vương.