Bộ Myrtales chiếm khoảng 6% sự đa dạng trong thực vật hai lá mầm thật sự phần lõi. Các hóa thạch được coi là của bộ này có niên đại khoảng 65 triệu năm trước (Crepet và ctv., 2004)[2]. Các loài sâu bướm Lycaenidae được tìm thấy rất phổ biến trên các thành viên của bộ này (đặc biệt là các họ Lythraceae, Myrtaceae, Combretaceae).
Vị trí của bộ Myrtales trong nhánh Hoa hồng là không ổn định trong các phân tích rbcL gần đây của thực vật hạt kín (Hilu và ctv., 2003)[3]. Quan hệ trong bộ cũng đã được nghiên cứu khá chi tiết trong các công trình của Conti và ctv. (1996, 1998, 1999, 2002), Sytsma và ctv. (1998, 2004), Clausing và Renner (2001: Melastomataceae), Schönenberger và Conti (2001, 2003: chủ yếu là Oliniaceae) hay Wilson và ctv. (2005: Myrtaceae nghĩa rộng) và cây phát sinh chủng loài đưa ra tại đây là dựa theo các ấn phẩm đó[4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14].
Vị trí của họ Combretaceae dường như vẫn chưa rõ ràng[15][16]. Berger & Sytsma (2010), Bell et al. (2010) và Soltis et al. (2011) phát hiện một vài mức độ hỗ trợ cho vị trí chị-em với [Onagraceae + Lythraceae]. Giải phẫu (các hốc lõm che phủ), một vài đặc trưng hình thái (kiểu lá chung và cách dính) và các dữ liệu phân tử tất cả đều gợi ý mạnh mẽ rằng Vochysiaceae nên được gộp trong Myrtales, nhưng thoạt nhìn thì các hoa có cựa đơn dối xứng khác biệt của họ này là hoàn toàn không giống như hoa của các họ khác trong bộ này.
Phân loại
Theo APG II thì bộ này chứa 11 họ với 380 chi và trên 11.000 loài. APG III công nhận 9 họ. Các họ sau là điển hình trong các phân loại mới nhất:
Biểu đồ phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo Wang và ctv. (2009),[17] với tên gọi các bộ lấy từ website của Angiosperm Phylogeny.[18]. Các nhánh với mức hỗ trợ tự khởi động thấp hơn 50% bị bỏ qua. Các nhánh khác có mức hỗ trợ 100% ngoại trừ những nơi có con số chỉ ra mức hỗ trợ cụ thể.
Phát sinh chủng loài trong phạm vi bộ Đào kim nương như hình dưới đây.
Nguồn gốc
Myrtales có niên đại khoảng 89-99 Ma tại Australasia. Tuy nhiên, có một vài tranh luận về niên đại này, cái thu được khi sử dụng DNA hạt nhân. Khi xem xét DNA lục lạp thì dường như tổ tiên của bộ Myrtales đã tiến hóa vào giữa kỷ Creta (~ 100 Ma) tại đông nam châu Phi chứ không phải Australasia[19] Mặc dù hệ thống APG phân loại Myrtales trong phạm vi nhánh eurosids, nhưng bộ gen công bố gần đây của Eucalyptus grandis lại đặt Myrtales như là nhóm chị-em với eurosids chứ không phải bên trong nó. Khác biệt này được cho là đã phát sinh do khác biệt khi sử dụng một lượng lớn các đơn vị phân loại thay vì sử dụng một lượng lớn gen để xây dựng cây phát sinh chủng loài[20].
^Hilu K., Borsch T., Muller K., Soltis D. E., Soltis P. S., Savolainen V., Chase M. W., Powell M. P., Alice L. A., Evans R., Sauquet H., Neinhuis C., Slotta T. A. B., Rohwer J. G., Campbell C. S. & Chatrou L. W. 2003. Angiosperm phylogeny based on matK sequence informationLưu trữ 2017-04-19 tại Wayback Machine. American J. Bot. 90(12): 1758-1766.
^Conti E., Baum D. & Sytsma K. 1999. Phylogeny of Crypteroniaceae and related families: Implications for morphology and biogeography. Tr. 250 trong XVI International Botanical Congress: Abstracts. [[[Vườn Bách thảo Missouri]], St Louis.]
^Sytsma K. J., Zjhra M. L., Nepokroeff M., Quinn C. J. & Wilson P. G. 1998. Phylogenetic relationships, morphological evolution, and biogeography in Myrtaceae based on ndhF sequence analysis. American J. Bot. 85(6, suppl.): 161.
^Schönenberger J. & Conti E., 2001. Molecular systematics and floral structure of a Western Gondwanan clade of Myrtales. Tr. 140 trong Botany 2001: Plants and People, Abstracts. [Albuquerque.]
^Hengchang Wang, Michael J. Moore, Pamela S. Soltis, Charles D. Bell, Samuel F. Brockington, Roolse Alexandre, Charles C. Davis, Maribeth Latvis, Steven R. Manchester, Douglas E. Soltis (2009). "Rosid radiation and the rapid rise of angiosperm-dominated forests". Proceedings of the National Academy of Sciences106(10):3853-3858. 10-3-2009.